Ông không trước thuật gì mấy, vì ông cho là con đường chính của sự học
vấn không ra được ngoài bộ sách Tính Lý. Ông nói rằng: “Từ Chu tử về sau,
cái đạo đã rõ lắm rồi; không cần làm sách vở gì nữa, chỉ nên đem mình mà
thực hành đạo ấy là đủ”. Vậy cái học của ông là chủ ở sự thực hành, mà
cách sửa mình cốt ở hai chữ phục tính
復性. Ông để lại bộ sách Độc thư lục
讀書錄, 20 quyển, lời lẽ rất giản thiết.
Học giả thời bấy giờ có nhiều người tôn sùng cái học của ông, nhất là ở
phía bắc nước Tàu, cho nên mới lập ra thành một học phái gọi là Hà Đông
phái
河東派, thịnh hành đến cuối đời nhà Minh.
Diễm Vũ Tích. Diễm Vũ Tích tự là Tử Dư
子舆, người đất Lạc Dương,
tỉnh Hà Nam. Ông đỗ hương thí rồi ra làm quan, theo học Tiết Huyên. Ông
thích giảng Thái Cực đồ thuyết và sách Thông thư của Chu Liêm khê. Cái
học của Tiết Huyên mà thịnh hành là nhờ có ông vậy.
Trương Đỉnh. Trương Đỉnh
張鼎 tự là Đại Khí 大噐, người đất Hàm Ninh,
tỉnh Thiểm Tây, đỗ tiến sĩ. Ông theo học Tiết Huyên, giữ được cái học
thuyết của thầy, và góp nhặt những văn tập của Tiết Huyên mà làm thành
sách.
Đoàn Kiên. Đoàn Kiên
段堅, tự là Khả Cửu 可久, hiệu là Dung Tư người
đất Lan Châu, tỉnh Cam Túc, đỗ tiến sĩ. Ông dạy học thì lấy sách của phái
Liêm và phái Lạc mà giảng tập, và cái học của ông theo đúng cái học của
họ Tiết vậy.
Trương Kiệt. Trương Kiệt
張桀, tự là Lập Phu 立夫, hiệu là Mặc Trai 默
齋, người ở đất Phượng Tường, tỉnh Thiểm Tây. Ông lấy ngũ Kinh mà dạy
người, có trọng danh một thời.
Lữ Nhiễm. Lữ Nhiễm tự là Trọng Mộc
仲木, hiệu là Kinh Dã 涇野, người
đất Cao Lãng, tỉnh Thiểm Tây, đỗ trạng nguyên. Cái học của ông là theo cái
học của Trình, Chu, lấy sự cách vật làm sự cùng lý và cho trước phải tri rồi
sau mới hành.
Đại để, cái học của phái Hà Đông, thường là đối lập với cái học của phái
Diêu Giang trong đời nhà Minh vậy.