được ít lâu rồi về nhà lo việc học, lấy sự nghèo làm thích, không thiết đến
của cải.
Cái học của ông lúc dầu dụng lực ở chỗ thực tiễn, sau theo về tịch tĩnh, đến
vãn niên mới triệt ngộ cái thể của nhân
仁. Thuở ấy những môn đệ của
Dương Minh bàn việc học, đều nói rằng: “Tri thiện, tri ác tức thị lương tri,
theo đó mà làm, tức là trí tri”. Ông bảo rằng: “Lương tri là nói chí thiện vậy.
Cái thiện của tâm ta, ta biết; cái ác của tâm ta, ta biết; không thể nói là
không phải cái tri được. Trong chỗ thiện, ác giao tạp, há lại không có cái gì
làm chủ hay sao? Không có cái gì làm chủ ở trong, mà bảo cái tri vốn
thường sáng là không phải. Cải tri có lúc chưa sáng, nếu theo đó mà làm,
mà bảo không có sai lầm ở lúc sau đã phát ra, và có thể thuận ứng các sự
vật, là không phải. Cho nên không trải qua sự khô kháo tịch mịch, hết thảy
phải lắng nghe cái thiên lý sáng rõ, thì không dễ mà tới được”. Ông cho
lương tri không có cái hiện hành, phải có tu chứng mới hoàn toàn.
Trong những người xưng là môn nhân của Dương Minh, ông là người tư
thục, nhưng ông hiểu được cái học của Dương Minh có phần hơn nhiều
người khác.
Trần Cửu Xuyên. Trần Cửu Xuyên
陳九川, tự là Duy Tuấn 惟濬, hiệu là
Minh Thủy
明水, người đất Lâm Xuyên, tỉnh Giang Tây, đỗ tiến sĩ. Cái học
của ông hợp cái tịch và cái cảm làm một. Tịch ở trong cảm, là cái bản thể
của cảm; cảm ở trong tịch, là cái diệu dụng của tịch.
3. Nam trung Vương môn
南中王門. Môn phái này ở đất Giang Tô, vùng
Nam Kinh. Những học giả trong môn phái này là: Hoàng Tỉnh Tăng
黄省
曾, tự là Miễn Chi 勉之, hiệu là Ngũ Nhạc 五岳, người huyện Tô Châu;
Chu Đắc Chi
朱得之, tự là Bản Tư 本思, hiệu là Cận Trai 近齋, người
huyện Tĩnh giang, tỉnh Giang Tô; Đường Thuận Chi, tự là Ứng Đức, hiệu là
Kinh Xuyên, người huyện Võ Tiến, tỉnh Giang Tô, v.v.
4. Sở trung Vương môn
楚中王門. Môn phái này vùng Hồ Nam và Hồ
Bắc. Những học giả trong môn phái này là: Tưởng Tín
蔣信, tự là Khanh
Thực
卿實, hiệu là Đạo Lâm 道林, người đất Thường Đức; Ký Nguyên
Hanh
冀元亨, tự là Duy Kiền 惟乾, hiệu là Ám Trai 闇齋, người đất Võ
Lăng, v.v.