Sự học trong đời Khang Hi rất thịnh, không những các phái trong Nho giáo
như phái Hán học và phái Tống học đều thịnh hành, mà phái Tây học cũng
có thế lực. Những giáo sĩ của hội Gia Tô giáo đến ở Bắc Kinh từ cuối đời
nhà Minh đều được trọng dụng. Lúc ấy có giáo sĩ Thang Nhược Vọng
湯若
望 (Adam Schall) và Nam Hoài Nhân 南懷仁 (Perdinand Vierbiest). đều
làm chức giám chính trong khâm thiên giám. Các giáo sĩ đem những sách
khoa học và triết học của Âu Tây dịch ra chữ Nho. Sau vì những giáo sĩ
thuộc về giáo hội khác ở phía nam nước Tàu công kích cái phương pháp
tuyên giáo của giáo hội Gia Tô (Société des Jésuites) cho nên Thánh Tổ
mới có lệnh cấm đạo, thành ra sự Tây học ở nước Tàu cũng vì thế mà gián
đoạn.
Vua Thế Tông niên hiệu Ung Chính (1723 - 1735). cũng chăm lo việc học,
mở các thư viện mà chọn những người minh kinh tu hạnh làm viện trưởng,
lấy những điều quy của Chu tử ở Bạch Lộc Động ban ra khắp cả nước.
Vua Cao Tông, niên hiệu Càn Long (1736 - 1795). cũng như vua Thánh Tổ
rất lưu tâm đến việc học, mở những khoa bác học hồng từ, và sai các quan
đại thần tuyển cử những kẻ sĩ tiềm tâm kinh học và ban thưởng rất hậu, Cao
Tông lại mở Tứ khố toàn thư quán
四庫全書舘, và sai quan làm bộ Tứ khố
toàn thư tổng mục
四庫全書總目, sách Đại Thanh hội điển 大清會典, sách
Đại Thanh nhất thống chí
大清一統志, sách Thập bát tỉnh thông chí 十八
省通志, v.v.
Bởi nhà vua trọng những người văn học, cho nên trong đời nhà Thanh có
nhiều người làm văn giỏi như Ngụy Hi, Hầu Phương Vực
候方域, Uông
Uyển
汪琬, Chu Di Tôn 朱彞尊, Phương Bào 方苞, và những người làm
thơ giỏi như Ngô Vĩ Nghiệp
呉偉業, Vương Sĩ Trinh 王士禎, Tra Thận
Hành
查慎行, đều là người nổi danh trong đời vậy.
Sự mở mang Nho học. Về việc học thì nhà Thanh vẫn theo quy cũ của nhà
Minh, duy chỉ sửa đổi một vài điều riêng cho người Mãn Châu. Thí dụ ở
kinh sư đã có nhà quốc tử giám, nhưng lại đặt thêm nhà tông học
宗學, nhà
giác la học
覺羅學, nhà hàm yên cung học 咸安宮學, nhà cảnh sơn quan
học
景山官學, nhà bát kỳ quan học 八旗官學, để dạy tôn thất đệ tử và bát