đây từ bỏ được cuộc đấu tranh vũ trang. Các nhà phân tích tình báo này
cũng không trông chờ các hoạt động tác chiến mặt đất ở các khu vực miền
núi hoặc biên giới để có thể cô lập được chiến trường ở miền Nam, như
quân đội đã hy vọng. Cho dù họ có làm được họ cũng sẽ không có tác dụng
quyết định trong cuộc xung đột bản địa rộng lớn ở miền Nam. Nhưng một
khi Mỹ đã tự can thiệp vào và bị thương vong nặng nề, tôi đã thấy trước
được những ý đồ rất rõ ràng để cố gắng bù đắp lại những thất bại ban đầu
và phá vỡ sự bế tắc bằng cách mở rộng chiến tranh xa hơn.
Điều này có thể sẽ sử dụng tới 2 hình thức. Thứ nhất, mặc dù các Tham
mưu trưởng và lực lượng không quân phủ nhận mọi ý định nhằm vào các
thành phố và khu dân cư của chính mình, như trong Chiến tranh thế giới
thứ hai và Triều Tiên, tôi nghĩ rằng sự thận trọng đó sẽ kéo dài việc không
phá hoại được "khả năng" kiên trì với cuộc chiến của miền Bắc. Đuổi theo
ý chí quyết tâm của miền Bắc cũng sẽ có nghĩa ném bom thành phố, cho dù
được chấp nhận hay không và phá huỷ các luồng lạch của sông Hồng ở
miền Bắc, đe doạ làm cho 1 triệu người bị chết đói.
Sự phản ứng nữa cho thất bại này là chấm dứt chi viện của miền Bắc cho
cuộc chiến tranh ở miền Nam sẽ đòi hỏi mở rộng những nỗ lực của quân
đội chúng ta nhằm ngăn chặn sự thâm nhập sang Lào và Campuchia nhằm
chiếm được các vùng phía nam của miền Bắc Việt Nam. Ngược lại, không
kết thúc được chiến tranh sẽ khích lệ sự xâm chiếm hoàn toàn của miền
Bắc, nghĩa là một sự tái diễn đẫm máu hơn cuộc chiến tranh của người
Pháp, tới tận biên giới Trung Quốc. Điều này rất có thể lôi kéo quân của
Trung Quốc vào cuộc chiến, nếu các cuộc hành quân sớm không được thực
hiện. Các nhà hoạch định chính sách của chúng ta từ lâu đã cho rằng trong
trường hợp đó chúng ta sẽ khởi xướng cuộc chiến tranh hạt nhân để chống
lại Trung Quốc.
Nhiều người hiểu rằng di sản của sự bế tắc ở Triều Tiên là một sự gây rối