nhân viên của Bộ Ngoại giao. Công việc của tôi là đánh giá tình hình "bình
định" ở vùng nông thôn. Thời gian này, tôi đã sử dụng vốn kiến thức của
một sĩ quan chỉ huy pháo binh của lực lượng lính thuỷ đánh bộ, để quan sát
cuộc chiến tranh một cách toàn diện. Trước đây câu hỏi liệu chúng ta có
một quyền gì đó, bất kể quyền gì cao hơn người Pháp tới chúng ta, để theo
đuổi cuộc chiến bằng lửa đạn và sắt thép ở Đông Dương, những mục tiêu
mà các nhà lãnh đạo của chúng ta đã lựa chọn, chưa bao giờ khiến tôi phải
bận tâm. Trong hai năm ở Việt Nam, ấn tượng về những người dân và hoàn
cảnh của họ đã trở nên chân thực với tôi hơn, chân thực như những binh
lính Mỹ mà tôi cùng hành quân, như chính đôi bàn tay của tôi, mà trong
một khía cạnh nào đó, đã khiến việc tiếp tục theo đuổi cuộc chiến vô vọng
đó trở nên không thể tha thứ được.
Bị loại khỏi chiến trường vì bệnh viêm gan và quay trở lại Mỹ từ giữa năm
1967 tôi bắt đầu làm tất cả những gì có thể để giúp đất nước tôi thoát khỏi
cuộc chiến tranh. Trong hai năm tôi làm việc này với danh nghĩa là người
trong cuộc phỏng vấn trực tiếp các quan chức cao cấp, cố vấn cho các ứng
cử viên tổng thống và cuối cùng, vào đầu năm 1969, làm trợ lý Cố vấn An
ninh quốc gia của Tổng thống. Nhưng cùng trong năm đó, tôi nhận ra mình
đã phá vỡ kế hoạch đề ra ban đầu nên quyết định chấm dứt sự nghiệp công
bộc cho chính phủ.
Một trong những việc làm trên đe doạ xâm hại quyền tụ do của tôi. Năm
1969 và 1970, với sự giúp đỡ của người bạn tên là Anthony Russo - một
cựu thành viên của Công ty Rand, tôi bí mật sao chụp toàn bộ 47 tập Hồ sơ
Lầu Năm Góc, một văn kiện nghiên cứu tối mật về các quyết định của Mỹ
ở Việt Nam từ 1945 đến 1968, làm sở hữu riêng của mình và trao chúng
cho Thượng nghị sỹ William Fulbright, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng
viện. Năm 1971, tôi cũng đã trao những bản sao cho tờ Thời báo New York
và tờ Bưu điện Washington và cuối cùng, bất chấp tới bốn lệnh cấm của liên