cúng của gia đình và mồ mả tổ tiên là do hậu quả kéo dài của các cuộc
không kích và pháo kích của Mỹ.
Patricia và Frances đã thực hiện cuộc phỏng vấn với GVN và các quan
chức Mỹ có trách nhiệm quan tâm tới những người tị nạn này. Họ thấy
hoảng sợ trước sự tự mãn và thờ ơ của đám quan chức này, đặc biệt là
người Việt Nam, nó được thể hiện bằng các điều kiện sống của những
người tị nạn ở các trại xung quanh Sài Gòn mà chúng tôi đang tới thăm.
Trong tất cả các vùng nông thôn tôi đã tới thăm, tôi chưa được tới một trại
tị nạn nào gần Sài Gòn như họ đang tả lại cho tôi. Lúc đó Patricia thúc giục
tôi đi cùng với họ. Thời tiết đang trong mùa mưa.
Điều tôi thấy là một thành phố nhỏ có nhiều người đang sống trong các túp
lều trên các cánh đồng bùn lầy và rác rưởi trộn lẫn với nhau. Dân tị nạn sẽ
đi qua đám bùn lầy này bằng một tấm ván nhỏ bắc từ túp lều này sang túp
lều kia. Thật sự không thể nào không dẫm chân vào đống bùn dơ dáy đó,
nhất là với một người phương Tây. Như thế mới có thể thấy được tại sao
người ta lại dùng bom để bắt người dân phải chuyển vào những nơi như thế
này.
Patricia đã nhìn cuộc chiến tranh bằng con mắt hoàn toàn khác. Không có
nhiều phụ nữ Mỹ ở Việt Nam ngoại trừ các cô thư ký. Vào một đêm ở Chợ
Lớn, khu phố Tàu, ăn tối với 8 hoặc 9 người bạn trai, Patricia tình cờ hỏi
từng người về hoàn cảnh gia đình của họ. Sau này cô ấy nói với tôi rằng tất
cả bọn họ đều ly dị hoặc ly thân với vợ từ lâu. Không ai là mới cưới.
Patricia có cảm nhận rằng họ đều là những người đàn ông tuyệt vọng với
gia đình nên tìm đến với sự nguy hiểm và chiến tranh, ưa mạo hiểm vì họ
cảm thấy không còn gì để mất. Cô ấy sẵn sàng phổ biến điều đó với toàn bộ
đoàn đi, với những người đàn ông cô ấy biết là đang tiến hành cuộc chiến
tranh trong nước, mặc dù tôi không chắc đó là việc làm chính đáng.