tưởng lại, mỗi bước đi chỉ dẫn đến bước tiếp theo, cho tới khi chúng ta
nhận ra chúng ta đang mắc kẹt trong cơn ác mộng của những nhà chiến
lược Mỹ đề ra, một vừng đất chiến tranh ở châu Á, một cuộc chiến mà
không một Tổng thống nào mong muốn hay dự kiến thực hiện, kể cả Tổng
thống Johnson"(79)
Trước khi tôi đọc được những tài liệu này, điều đó xem ra có vẻ hợp lý. Tôi
đã làm việc theo quan điểm đó ngay từ những ngày đầu làm việc cho dự án
nghiên cứu của McNamara - hoặc, vì nó cũng đã được biết đến, trong tài
liệu mật của Lầu Năm Góc. Từ kinh nghiệm của bản thân khi ở Lầu Năm
Góc, tôi biết Schlesinger, cũng như những người khác, đã sai lầm khi dựa
vào những lý lẽ tương tự cho sự leo thang của Tổng thống Johnson vào
năm 1965. Nhưng tôi tưởng tượng ra rằng như năm 1967, thời kỳ 1964-
1965 là một sự khủng hoảng khác thường của chủ nghĩa bi quan.
Xét cho cùng, từ những kinh nghiệm trong lĩnh vực của mình trong những
năm ngay sau đó, thật khó để tôi không nghi ngờ rằng Tổng thống Johnson
đã lạc lối bởi những sai lầm không kiểm soát được, những báo cáo lạc quan
mà tôi biết là đã được nộp cho văn phòng ở Nhà Trắng của Walt Rostow và
Bob Korner thật khó có thể cung cấp một thông tin được chọn lọc cho Tổng
thống. ảnh hưởng của những suy luận trên phạm vi rộng này đã làm giảm
một cách đáng kể gánh nặng trách nhiệm, hoặc buộc tội, vì sự bất lực và
chính sách sai lầm đối với mỗi vị Tổng thống và đặt trách nhiệm đó lên vai
những cố vấn của họ, nhất ỉà những chuyên gia về quân sự, và về sự nhận
thức hạn chế và những bản tường trình, đó là thất bại về nhận thức một
cách hệ thống. Giải pháp dường như là tìm ra cách để cung cấp những
thông tin chính xác hơn cho Tổng thống (Nếu Nga Hoàng chỉ biết…!").
Như tôi đã cố gắng làm bằng những thông báo trực tiếp và lời khuyên của
tôi là làm thế nào để hiểu được McNamara, Korner và Đại sứ đặc nhiệm ở
Sài Gòn.