thực ra cũng chưa có lần đàm phán nghiêm túc nào - và miền Bắc Việt Nam
được đề nghị rằng có ít nhất một cơ hội để họ chấp nhận điều đó. Do vậy đề
xuất này là điểm khởi đầu thích hợp để tiến hành đàm phán. Năm 1967,
những lời kêu gọi Mỹ đơn phương rút quân toàn bộ, dần dần hay ngay lập
tức chủ yếu vẫn là của các trí thức cấp tiến như Howard Zinn hay Noam
Chomsky (tôi mới bắt đầu đọc các bài viết của ông này), các nhà hoạt động
vì hoà bình và những người kích động công luận như Abbie Hoffman và
Dave Dellinger và ứng cử viên chức Tổng thống của phe Hoà bình và Tự
do Eldridge Cleaver. Nhân vật chính trị lớn duy nhất đề xuất việc này là
Martin Luther King.
Cương lĩnh của Đảng Cộng hoà cho chiến dịch tranh cử năm 1968 rất giống
như cương lĩnh của Đảng Dân chủ được Johnson ủng hộ. Người của Nixon
đã hợp lực với các đại diện của Nelson Rockerfeller, nổi bật là Henry
Kissinger để chống lại quan điểm diều hâu của Thống đốc bang Ronald
Reagan. Tuy nhiên, quan điểm của Kissinger gần gũi với cương lĩnh hoà
bình của những người bất đồng Đảng Dân chủ hơn là cương lĩnh chính thức
của một trong h.ai Đảng. Đặc biệt, mục tiêu thực tiễn của quá trình chuyển
giao dường như ít tham vọng hơn và thực tiễn hơn những gì mọi người
trong chính giới muốn tuyên bố công khai. Nó di quá cả việc khuyến khích
thành lập ra một chính phủ liên hiệp - cương lĩnh thoả hiệp mà Humphrey
chấp nhận nhưng Johnson và các lực lượng của ông ta đã bác bỏ - để quy
định việc chấp nhận một chính phủ Cộng sản ở Sài Gòn, không ngay lập
tức nhưng có thể trong một vài năm. Không một nhân vật chính trị nào
công khai tuyên bố điều đó.
Tất nhiên, Kissinger chưa công khai tuyên bố đề xuất của mình, nhưng ông
ta đã hối thúc ứng cử viên của Đảng Cộng hoà Nelson Rockerfeller. Mặc dù
những người chỉ trích kêu gọi ngừng ném bom và Mỹ rút quân nhưng ngụ ý
nói tới việc chấp nhận một chính quyền gần như là Cộng sản ở Nam Việt
Nam, họ không nói điều đó một cách rõ ràng, thậm chí khi bàn bạc riêng