chung rất tiêu cực với mức độ khác nhau, nào là cực đoan, đơn giản hoá,
thân Cộng sản hoặc thân Mặt trận dân tộc giải phóng nào là cuồng tín,
chống Mỹ và giáo điều. Tôi tới Haverford cũng một phần là để tìm hiểu
xem những gì báo chí viết có chính xác không. Tôi không muốn bản thân
mình bị gọi như vậy (nhưng những năm sau, cái giá mà tôi phải trả vì đã
phản kháng không dùng vũ lực để chống chiến tranh là việc tôi đã bị gán
cho tất cả những tội danh nêu trên).
Nhưng những người mà tôi gặp và lắng nghe tại hội nghị lại không gặp
phải những vấn đề như vậy. Bốn ngày thảo luận sôi nổi mà tôi được tham
dự, bao gồm cả những tranh luận về nguyên tắc và chiến lược chung, cũng
như các chiến thuật đã phản bác lại những tội danh nêu trên. Xin lấy một ví
dụ, người ủng hộ thuyết vô chính phủ và yêu chuộng hoà bình chỉ trích
quyền lực và bạo lực của nhà nước mà tất cả các đại biểu đều chung quan
điểm hầu như không tạo ra cơ sở gì cho quan điểm thán phục và không phê
phán Liên Xô, chính quyền ở Hà Nội hay Mặt trận dân tộc giải phóng.
Những đại biểu tham dự hội nghị này phản đối chiến tranh mà không thi vị
hoá Việt Cộng, những chiến sĩ cách mạng sử dụng vũ lực của thế giới thứ
ba, hay các nước xã hội chủ nghĩa nhiều hơn là phản đối nhà nước của
chính họ.
Cũng giống như phản đối chiến tranh, khi thách thức việc lạm dụng quyền
lực nhà nước, họ đi quá những lời chỉ trích bên lề. Một số người có mặt,
bao gồm Michael Randle, Chủ tịch của Tổ chức những người chống chiến
tranh quốc tế và Devi Prasad, Tổng thư ký của tổ chức này đã có những
hành động trực tiếp không dùng vũ lực tại Đông Âu vào tháng 9-1968, rải
truyền đơn tại một số thủ đô để phản đối việc Liên Xô và Khối hiệp ước
Varsava xâm lược Tiệp Khắc. Điều này đồng nghĩa với những cuộc biểu
tình tại các quảng trường thành phố, nơi mà các cuộc biểu tình là bất hợp
pháp và những người tham gia sẽ bị bắt ngay lập tức. Trong đa phần các
trường hợp, họ sẽ bị giam giữ và cầm tù.