sang Lào, Nam Việt Nam và bí mật sang Campuchia. Tính tổng cộng, họ đã
ném một số lượng bom lớn hơn trước đó, với số lượng khoảng một triệu tấn
bom một năm hay là bằng nửa tổng số bom ném xuống trong Chiến tranh
thế giới lần II. Tuy nhiên biên bản của hội nghị này cho thấy chỉ có một
phần mười giấy tờ và một phần hai mươi diễn giả tập trung trực tiếp vào
chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến mà tất cả các diễn giả đều cho rằng sắp
kết thúc.
Những nhà hoạt động chống chiến tranh này đều có chung một giả thuyết
được hầu như tất cả mọi tầng lớp trong xã hội Mỹ chấp nhận trong vòng 18
tháng kể từ khi Hà Nội đồng ý lời đề nghị của Johnson tiến hành đàm phán
công khai vào ngày 3-4-1968. Giả thuyết cho rằng cuộc tổng tiến công Tết
Mậu Thân 1968 và lời đề nghị đàm phán của Johnson đã vĩnh viễn giải
quyết liệu Mỹ có rút quân khỏi Việt Nam và kết thúc chiến tranh hay
không? Người ta cho rằng câu hỏi duy nhất còn lại là những gì mà một diễn
giả đã mô tả là "tốc độ rút quân khi kết thúc cuộc chiến tranh bẩn thỉu đằng
đẵng này".
Nhưng tôi biết giả thuyết đó là sai. Tôi vừa được biết tại Washington một
tuần trước khi họp hội nghị về điều bí mật được giữ kín rằng bản thân
Nixon không chấp nhận giả thuyết đó Nixon cũng như Johnson đều không
muốn chấp nhận thất bại của Mỹ trong việc quyết định chính trị của Nam
Việt Nam, thất bại trong việc ngăn ngừa sự thống trị của Cộng sản tại Sài
Gòn và những nơi khác nữa. Khi tôi tới Haverford, trong đầu tôi văng vẳng
lời tiên đoán của Halperin với tôi ở Washington: "Chính quyền này sẽ
không tham gia tranh cử năm 1972 mà lại không đặt mìn tại Hải Phòng hay
ném bom tại Hà Nội". Và sự tiết lộ của Vann rằng ít nhất sẽ vẫn còn hàng
nghìn quân Mỹ đóng ở Việt Nam vào cuối năm 1972. Tại hội nghị tôi
không thể tiết lộ những gì tôi biết. Những thông tin được tiết lộ cho tôi cực
kỳ bí mật. Tôi hầu như không thể nói gì về điều đó mà không hỏi ý kiến
hay nguồn cung cấp thông tin là John Paul Vann và Morton Halperin. Bản