Việt Nam. Có lẽ bằng cách công khai với các quan điểm "chuyên môn cao"
của chúng tôi, chúng ta có thể mời nhóm thứ nhất tham gia cùng, cụ thể là
mời các đảng viên Đảng Dân chủ kêu gọi rút quân khỏi Việt Nam. Bằng
cách làm việc đó công khai, trước khi Nixon cam kết bản thân với chính
sách mà ông ta thích, họ không những có thể gây sức ép với ông ta mà còn
trấn an với ông ta rằng họ sẽ chia sẻ trách nhiệm đối với việc rút quân. Đặc
biệt là vào tháng chín sau khi đọc xong về toàn bộ quãng thời gian 23 năm
trong nghiên cứu McNamara, tôi dần dần nhận ra sự trấn an của các chính
trị gia đối thủ với nhau là cực kỳ quan trọng đối với sự sẵn sàng của Tổng
thống để đối mặt với những cáo buộc "đã thua cuộc trong chiến tranh".
Các nhà lãnh đạo trong phe đối lập của Đảng Dân chủ, bao gồm các quan
chức trước đây phải chấp nhận, trái ngược với bản năng của họ, rằng việc
rút quân và tránh sa lầy tại Việt Nam bây giờ là chính sách thích hợp, là lợi
ích tối cao và sự bất đồng quan điểm công khai của họ đối với chính sách
của Tổng thống là quan trọng và đáng làm. Thậm chí có thể khó khăn hơn
đối với họ, họ sẽ phải chịu búa rìu dư luận về tình huống khó xử bắt buộc
đối với tân Tổng thống và thuyết phục ông ta về việc họ sẵn sàng chia sẻ
trách nhiệm khi thay đổi chính sách và những hậu quả sau này của nó. Làm
được điều đó không phải là dễ. Nhưng đối với tôi dường như đó là việc cần
làm ngay, và đó là công việc tôi quyết tâm làm.
Gây sức ép với Tổng thống đương nhiệm, một phần bằng cách khuyến
khích đảng đối lập với Tổng thống tự lên án, là không nhất quán với cuộc
đời của một nhà phân tích của Rand.
Tôi cũng nhận ra sự thù địch giữa lãnh đạo hai đảng Dân chủ và Cộng hoà.
Sau khi tôi đi Haverford về, cả hai mối quan ngại này đều giảm đi. Dường
như tôi không thể có cơ hội nào một lần nữa được hỏi ý kiến của chủ tịch
một trong hai đảng, cho đến bây giờ đó vẫn là tham vọng lớn nhất của tôi.
Nhưng đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc về cách xử sự của bốn đời Tổng thống tại