Việt Nam, và nhớ lại những kinh nghiệm của cá nhân tôi với vị Tổng thống
thứ tư và thứ năm, đột nhiên khiến tôi dễ chấp nhận việc tham vọng của
mình không thực hiện được. Tôi đã không còn mong muốn làm việc cho
Tổng thống, nếu hiểu theo một cách nào đó thì là phụ tá của Tổng thống.
Điều đó nghe có vẻ ngạo mạn và kiêu căng, nếu xét theo cấp bậc thấp mà
tôi phục vụ trong quân đội. Xét cho cùng, tôi chưa bao giờ gặp một vị tổng
thống nào (trừ một lần vào năm 1967 khi Tổng thống Johnson trao huy
chương cho Frank Scotton, một người bạn của tôi vì anh đã có nhiều sáng
kiến khi làm việc với Cơ quan thông tin của Mỹ (USAI). Nhưng thậm chí
khi làm đại uý hải quân, tôi luôn coi mình là vệ sĩ của Tổng thống, sẵn sàng
chiến đấu bất kỳ khi nào và chống lại bất cứ ai mà Tổng thống muốn. Tôi
nghĩ rằng trách nhiệm trực tiếp trước Tổng thống khi làm việc phục vụ ông
ta là đặc điểm nổi bật của phần lớn, hoặc nhiều, quan chức trong ngành
hành pháp. Nhưng trong tháng đó, cảm giác hài lòng đó biến mất trong tôi,
sau khi tôi biết những gì mà năm đời Tổng thống đã làm trong cuộc chiến
tranh lâu dài này.
Tôi không còn liên quan gì đến Tổng thống, không còn coi mình là người
phục vụ ông ta theo cách hiệu quả nhất để gây ảnh hưởng đến chính trị hay
phục vụ xã hội.
Tuy nhiên, sự vỡ mộng này luôn luôn mang lại một cảm giác tự do mới.
Tôi không còn đợi Nhà Trắng hay một quan chức nào phục vụ cho Tổng
thống gọi nữa. Đó là cảm giác tự do như có thêm nhiều sự lựa chọn để phản
kháng, giống như sự thoải mái vô tư mà tôi mới tìm thấy. Giờ đây tôi thấy
mình có thể dễ dàng cân nhắc những hình thức phản kháng khác nhau để
trình bày chính sách có khả năng ngăn cản không cho phép tôi được làm
việc trong ngành hành pháp. Nỗi lo sợ không được làm việc trong ngành
hành pháp, chứ không phải bị đi tù, là yếu tố răn đe khiến cho phần lớn các
đồng nghiệp của tôi, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, không cân nhắc các hành