động chính trị đi quá xa mức cho phép. Riêng tôi thì không còn lo sợ gì về
điều đó nữa. Từ quan điểm của họ, tôi trở thành một phần tử nguy hiểm khi
biết nhiều chuyện.
Giữa tháng chín, tôi nói với đồng nghiệp của tôi, anh Konrad Kellen, rằng
tôi đã sẵn sàng hợp tác cùng các cán bộ của Rand, những người đã hai năm
liền hối thúc để có được chiến lược đơn phương gỡ rối thoát khỏi cuộc
chiến tranh Việt Nam. Tôi gợi ý chúng tôi nên tổ chức cuộc họp để bàn bạc
xem chúng tôi nên làm gì. Chiều hôm đó, anh ta đi họp cùng với 4 đồng
nghiệp nữa: Mel Gurtov, Paul Langer, Amold Horelick, và Oleg Hoeffding.
Gurtov là chuyên gia phụ trách về Trung Quốc và Đông Nam Á, Langer về
Nhật Bản, Horelick và Hoeffding về Nga. Tôi thông báo cho họ biết những
gì tôi biết được từ Halperin và Vann về chính sách của Nixon. Tổng thống
đã thử nghiệm cách tiếp cận muốn cả hai bên cùng rút quân thông qua đàm
phán nhưng cách đó đã thất bại. Ông ta dường như hy vọng rằng điều này
sẽ xảy ra nếu quân Mỹ tiếp tục ở lại Việt Nam, nhưng tôi không trông đợi
điều đó, và tôi cũng không muốn tiếp tục ném bom và giao chiến khi chúng
ta chờ đợi điều đó. Bây giờ, tôi chấp nhận lập luận của nhóm làm việc rằng
cách duy nhất để chúng ta thoát khỏi chiến tranh Việt Nam là đơn phương
rút quân Vì Nixon không nói gì nhiều tới chính sách của ông ta kể từ khi
ông ta thông báo hy vọng cả hai bên cũng rút quân vào mùa xuân, tôi nghĩ
vẫn còn có cơ hội thuyết phục ông ta nên có kế hoạch khác trước khi việc
binh lính Mỹ thương vong và những tuyên bố công khai sẽ khiến cá nhân
ông ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả của cuộc chiến mà ông ta không
thể chấp nhận được nếu không phải là sự thành công.
Chúng ta đều nhất trí rằng điều đó có khả năng xảy ra, thậm chí cả với đề
xuất vào tháng 7-1969 của Clark Clifford trong Tạp chí Ngoại giao (bây
giờ anh ta đã thôi việc) để rút hết bộ binh của Mỹ ra khỏi Việt Nam vào
cuối năm 1970, và sau này căn cứ vào những diễn biến tiếp theo sẽ quyết
định rút toàn bộ các đơn vị hậu cần, hỗ trợ không quân và cầu hàng không.