sẽ báo cho FBI; hoặc là FBI vì một lý do gì đó nghe phong thanh được về
điều này và sẽ truy tìm những bản sao chụp khác của tôi.
Nếu tờ báo (1) cam kết xuất bản và (2) có kế hoạch xuất bản phần lớn
nghiên cứu này trên mặt báo thì việc những bản sao còn lại (cũng là "bản
cáo trạng" của tôi) bị mất cũng không phải là vấn đề gì to tát. Nhưng nếu
trong trường hợp không có được cả hai điều kiện trên thì việc mất các bản
sao và việc tôi bị cảnh sát theo dõi cũng sẽ có nghĩa là cuộc chơi chấm dứt
nếu như tôi còn tính đến việc công bố tài liệu này ngoài Quốc hội.
Những tài liệu này ở đó càng lâu mà chưa có quyết định xuất bản, thì càng
có khả năng nhiều người sẽ biết tới và đọc chúng và một trong số họ sẽ báo
cho Chính phủ. Kết luận cuối cùng của những tính toán này là tôi không
muốn gửi phần lớn tài liệu tới trụ sở tờ Thời báo trừ phi những người đứng
đầu của tờ báo đã sẵn sàng xuất bản và phải là xuất bản phần lớn tài liệu.
Tôi trông đợi Neil sẽ đại diện của tờ Thời báo trong vấn đề này. Tôi đã sẵn
sàng cho anh xem tất cả những gì anh ta muốn xem và ghi chép lại. Nhưng
tôi sẽ không để anh chụp lại một bản nào để mang về toà báo.
Lẽ dĩ nhiên là Neil không thể ngay lập tức đưa ra bất kỳ cam kết nào với tôi
trong vấn đề này. Anh cũng đã nói rõ với tôi như vậy. Anh ta sẽ phải làm
các biên tập viên của anh ta có ấn tượng tốt về nội dung của tài liệu này, rồi
sau đó sẽ là những cuộc thảo luận cấp cao hệ quả của việc này đối với tờ
Thời báo. Thêm vào đó, tôi cũng đã nói với anh ấy rằng chẳng bao giờ có
một sự đảm bảo tuyệt đối. Về những việc kiểu như thế này, tôi hiểu rằng dù
cho họ có hứa hẹn và thực sự có ý định sẽ làm thì họ hoàn toàn có thể thay
đổi quyết định vào phút chót. Đó là sự mạo hiểm tôi phải chấp nhận khi
đưa cho họ những trang tài liệu.