chứng bại não thì phải chuyển sang trường đặc biệt. Mẹ từng bảo rằng vợ
chồng chú ấy hay hỏi han về tôi, học hành thế nào, sống ra sao. Trong giờ
ra chơi, đôi lúc tôi nhìn về phía họ và hai vợ chồng Ike và Mary Bykovski
mỉm cười lại với tôi, thân thiện như thể đang nhìn con của mình vậy. Có lẽ
tôi đã tìm được thợ hàn cho mình rồi.
Đêm đó, sau khi ca tối đã tan và những người công nhân ca khuya khuất
vào hầm mỏ, tôi chuồn ra cửa sau đi đến khu mỏ. Phòng trường hợp Bố bị
chiếc phôn đen sì gọi bất ngờ lên mỏ sẽ phát hiện ra mình, tôi bèn đi ẩn
dưới bóng cây. Tôi còn cẩn thận đi theo con đường bí mật đến khu mỏ mà
bọn tôi khám phá trong lúc chơi trò cao bồi và da đỏ lúc nhỏ. Vào ban đêm,
các lối vào khu mỏ đều bị khóa lại nhưng tôi biết trong hàng cây trên núi có
một rãnh thoát nước chạy dài xuống dưới hàng rào. Gần đó là cánh cửa bị
khóa trái hiếm khi được sử dụng tới dẫn đến ngay cửa hàng. Tôi tìm thấy
rãnh nước rồi mò mẫm trong đêm tối đến khi chạm được vào cánh cửa.
Tiếp đó, tôi nắm lấy hàng rào rồi bắt đầu tuột xuống núi đến khi đứng trên
vách đứng cuối rãnh nước. Một tay nắm lấy mối nối của hàng rào, tôi đu
người xuống để chân chạm xuống ống nước rồi chui qua dưới hàng rào
sang phía bên kia. Cửa hàng điện máy chỉ cách đó khoảng 11 mét, ánh sáng
phát ra soi rõ cánh cửa và cả con đường.
Tôi hé nhìn qua lớp kính bẩn thỉu của cửa sau. Chú Bykovski đang vận
bộ đồ áo liền quần rộng thùng thình, đứng làm việc bên chiếc máy tiện.
Chú nhỏ con và có đôi tai bé tí nhưng vểnh ra ngoài, nhìn cứ như chiếc mũ
bảo hộ đang nằm tựa lên chúng vậy. Lấy hết can đảm, tôi mở cửa bước vào.
Chú nhìn tôi gật đầu chào sau đó tôi đứng đợi chú kết thúc công việc đang
dang dở. “Cháu khỏe không, Sonny?” Chú hỏi, cứ như chuyện tôi xuất hiện
trước mặt ông vào lúc nửa đêm là rất bình thường vậy.
Giọng của chú Bykovski còn chút lơ lớ, tôi chẳng lấy làm lạ với điều này
bởi số lượng người nhập cư ở Coalwood cũng tương đối đáng kể. Một số
người Ý đã trám chỗ những công nhân đình công vào những năm 1920 và