làm chồng tài liệu trên bàn vương vãi cả ra. Thầy đứng dậy, ngạc nhiên vì
sự tự nhiên của cô, tay phủi phủi những vết bụi tưởng tượng trên áo.
Tôi nhoài người lên bàn, ngón tay run rẩy dò tìm ra vị trí của Coalwood
rồi rà dọc xuống thung lũng về phía con sông ở Big Branch. “Đây ạ,” tôi
chỉ vào điểm phía dưới tượng trưng cho Cape Coalwood.
Hai chú cảnh sát nhìn rồi một trong số họ dằn nắm đấm xuống tọa độ của
núi Davy. “Cô thấy chưa, chỉ cách có 2,5cm!”
“2,5cm trên tấm bản đồ này bằng 10 dặm ở ngoài đời đấy,” cô Riley mỉa
mai.
Quentin đang quan sát cái ống. “Phải rồi!” cậu ấy thì thào. “Lẽ ra cháu
phải phát hiện ra ngay giây phút đầu tiên nhìn thấy bộ thăng bằng này chứ.
Chúng có gắn lò xo, tạo lực đẩy để nó bung ra sau khi rời khỏi phần ống
mẹ.”
Mọi người trong phòng đều trố mắt nhìn và cố hiểu xem cậu ấy đang nói
về cái gì.
“Nó là pháo sáng làm hiệu của hàng không. Cháu đã ngờ ngợ khi nhìn
thấy nó. Cháu từng đọc một cuốn sách về ngành hàng không dân dụng
khoảng một tháng trước.” Quentin lướt qua tấm bản đồ. “Nhìn này. Phi
trường Welch nằm đây, ngay kế bên núi Davy. Chắc chắn đây là pháo sáng
rớt ra từ một chiếc máy bay nào đó rồi!”
Mấy chú cảnh sát nhìn cái ống, cầm lấy nó từ tay Quentin, đóng bộ thăng
bằng rồi lại mở ra. Sau đó họ nhìn nhau rồi lại nhìn xuống tấm bản đồ.
Thầy Turner tỏ vẻ xấu hổ ra mặt trước chúng tôi. Nhưng rồi ông lấy lại vẻ
nghiêm nghị, cẩn thận xoay tấm bản đồ lại và xem xét kĩ lưỡng. Sau đó
thầy đứng thẳng người lên và nói nhỏ nhẹ với các chú cảnh sát: “Tôi nghĩ