Tôi đến bệnh viện mà Bố nằm trong những phút cuối đời. Người hộ lý
trò chuyện với tôi giọng đầy cảm thông và rồi họ hiểu rằng tôi chẳng cần
chuẩn bị tâm lý gì cả. Tôi cần được biết mọi việc mặc dù nó không phải là
bằng chứng gì cho cả hai bố con tôi. Rốt cuộc bác sĩ cũng cho tôi biết: Bố
đã bị ngạt thở, những mảnh than và bụi đá bám trong phổi ông năm này qua
tháng nọ bây giờ không cho phép một tí ôxy nào đi vào nữa.
Người hộ lý nói cứ như Bố tôi là một người đàn ông rất yếu ớt vậy.
Nhưng thực tế không phải thế cho đến khi lá phổi đen ngòm đó rốt cuộc
cũng đánh gục ông. Chỉ vài tuần sau, ông bắt đầu bị co rút, rõ ràng đang bị
lá phổi hành hạ và bấy giờ nó đã trở thành yếu tố quyết định cho sự sống
còn của ông.
Rồi ông bị co giật liên tục. Phải thêm một người hộ lý nữa để ghì ông lại
trên băng-ca đưa đến phòng cấp cứu cho bác sĩ cố gắng cứu chữa trong hy
vọng nhỏ nhoi. Lúc đó ông cào cấu cổ và lồng ngực như muốn xé toạc
chúng ra. Người hộ lý kể lại rằng mắt ông vẫn mở trừng trừng cho đến phút
cuối và tôi có thể tưởng tượng được rõ ràng cặp mắt xanh đanh thép luôn
ngời sáng đó. Ông vẫn tỉnh táo cho đến khi tắt thở và sau cùng là lắc đầu
nguầy nguậy như muốn từ chối tất cả những sự giúp đỡ xung quanh mình.
Tôi mong rằng ông đã dần lịm đi trong lúc tâm trí còn tỉnh táo và cảm nhận
được bóng tối đang bao trùm lấy mình như thể ông đang được về lại khu
mỏ yêu dấu của ông một lần cuối. Tôi còn mong có một cánh tay của người
đốc công vươn ra cố kéo ông từ bóng tối trở lại với ánh sáng. Trong giây
phút ấy, ông đã có thể nhận ra được người đó, vươn cánh tay níu lại một lần
cuối và nhận được những gì được gửi trao.
Nhưng tôi nghi ngờ rằng đó không phải là những gì Bố muốn.
Tôi xem xét mọi thứ để đảm bảo Mẹ có thể ổn định trong căn nhà nằm
cạnh bãi cát nâu chạy dọc theo biển Đại Tây Dương mà bà luôn yêu mến.