ấy nghĩ đến việc xuống nơi này.”
“Ông ta không đi đâu,” tôi nói. “Con người ấy thực tế cứ ở lì một chỗ y
hệt con sao sao bám vào đá vậy.”
Lúc mười hai giờ rưỡi tôi bấm chuông nhà số 62, Wilbraham Crescent. Bà
Ramsay mở cửa. Bà ta hầu như không ngước mắt lên nhìn tôi.
“Cái gì thế?” bà hỏi.
“Tôi có thể nói chuyện với bà một lát không ạ? Tôi đã tới đây chừng
mười ngày trước. Có lẽ bà không nhớ.”
Bà ta nhướn cặp mắt nhìn tôi để dò xét thêm. Cặp lông mày bà thoáng
nhíu nhẹ.
“Ông đã đến cùng với ông thanh tra cảnh sát, phải không?”
“Đúng vậy, bà Ramsay. Tôi vào được không?”
“Ông muốn vào thì cứ vào. Người ta đâu có từ chối không cho cảnh sát
vào chứ. Làm thế sẽ bị đánh giá rất tồi tệ.”
Bà ta dẫn đường vào phòng khách, đột ngột khoát tay về phía một cái
ghế, sau đó ngồi đối diện với tôi. Giọng bà lúc trước hơi gay gắt, nhưng
thái độ của bà giờ đây đã trở lại thờ ơ hờ hững mà trước đó tôi không để ý.
Tôi nói: “Hôm nay hình như ở đây thật yên tĩnh. Chắc hai con trai của bà
đã trở lại trường rồi hả?”
“Vâng, quả có khác.” Bà nói tiếp, “Chắc ông muốn hỏi thêm về án mạng
vừa qua, phải không? Cô gái bị giết trong buồng điện thoại.”
“Không, không hẳn. Thật sự tôi không liên quan đến cảnh sát, bà biết
không.”
Bà ta có vẻ hơi ngạc nhiên.
“Tôi tưởng ông là trung sĩ Lamb, chẳng phải thế sao?”
“Tên tôi là Lamb, đúng vậy, nhưng tôi làm ở một bộ phận khác.”
Vẻ thờ ơ hờ hững chợt biến mất không còn thấy trong thái độ của bà
Ramsay nữa. Bà liếc nhìn tôi thật nhanh, cái nhìn chằm chặp thẳng vào mặt
tôi với vẻ khó chịu.
“Ồ,” bà ta nói, “vậy, chuyện gì thế?”