nào có sấn sổ hỏi han vẫn được hoan nghênh vì đó là điều mới lạ. Cho tới
khi tôi tự chứng tỏ mình là một gã nói chuyện không vui và chán ngắt, nó
vẫn hết sức sẵn sàng trò chuyện.
“Chắc bố em ra ngoài rồi hả?” tôi hỏi.
Con bé đáp lại cũng nhanh lẹ và đầy đủ chi tiết như đã thể hiện trước đó.
“Công xưởng Cartinghaven ở Beaverbridge. Cách đây đúng mười bốn
dặm ba phần tư ạ.”
“Còn mẹ em?”
“Mẹ chết rồi,” Geraldine đáp, niềm hân hoan vẫn không hề suy giảm.
“Bà chết lúc em mới hai tháng tuổi. Mẹ đi máy bay từ Pháp đến. Máy bay
bị rơi và mọi người đều chết cả.”
Nó nói với đôi chút mãn nguyện khiến tôi cảm thấy với một đứa nhỏ nếu
mẹ nó đã chết đi, điều ấy phản ánh một vinh quang nào đó nếu như bà ta bị
chết trong một tai nạn hủy diệt toàn bộ.
“Tôi hiểu rồi,” tôi nói. “Vì thế mà em mới có…”
Tôi nhìn về phía cửa phòng.
“Đó là Ingrid. Chị ấy đến từ Na Uy. Mới có nửa tháng nay thôi. Chị ấy
chưa nói được tiếng Anh. Em đang dạy tiếng Anh cho chị ấy.”
“Và chị ấy dạy tiếng Na Uy cho em hả?”
“Không nhiều lắm,” con bé đáp.
“Em có thích chị ấy không?”
“Có ạ. Chị cũng được lắm. Đôi lúc món chị nấu khá kỳ quái. Anh biết
không, chị ấy thích ăn cá sống.”
“Anh từng ăn cá sống ở Na Uy,” tôi nói. “Đôi khi cũng rất ngon.”
Geraldine có vẻ vô cùng hoài nghi điều ấy.
“Hôm nay chị ấy đang cố làm bánh tạt nhân mật đường đấy ạ,” nó nói
tiếp.
“Mới nghe đã thấy ngon rồi.”
“Ùm — vâng, em thích bánh tạt nhân mật đường.” Nó lễ phép nói thêm,
“Có phải anh đến để ăn trưa không ạ?”