Tôi cầm lấy ống nhòm từ tay cô bé, đưa lên vừa tầm mất rồi nhìn ra bên
ngoài cửa sổ.
“Hay quá ta!” tôi khen.
Quả đúng thế, rất tuyệt. Bố của con bé, nếu đúng là đã cung cấp món đồ
này, hẳn đã không tiếc tiền. Thật đáng kinh ngạc vì anh có thể nhìn thấy
thật rõ nhà số 19, Wilbraham Crescent, và các nhà lân cận. Tôi trao cặp ống
nhòm lại cho con bé.
“Rất tuyệt,” tôi nói. “Hạng nhất đó.”
“Nó rất bảnh,” Geraldine nói với vẻ tự hào. “Không phải đồ chơi cho các
em bé và không phải giả vờ xem chơi đâu nhé.”
“Đúng… anh thấy vậy.”
“Em có giữ một quyển sổ nhỏ,” Geraldine nói tiếp.
Nó đưa quyển sổ cho tôi xem.
“Em ghi chép vào đây chuyện này chuyện nọ cùng với giờ giấc. Giống
như lúc nhàn rỗi người ta có cái thú vui ghi nhận con số của các đầu máy
xe lửa,” nó nói thêm. “Anh họ em tên là Dick hay chơi trò ghi số tàu hỏa.
Bọn em còn ghi cả số xe ô tô nữa.”
“Một trò giải trí khá hay,” tôi nhận xét.
“Vâng, đúng thế. Thật không may gần đây chẳng có nhiều ô tô chạy trên
đường này, nên hầu như em đã bỏ không ghi lại nữa.”
“Chắc em phải biết rõ mọi chuyện về những ngôi nhà dưới kia, những ai
sống trong ấy và đủ thứ chuyện nữa.”
Tôi tuôn ra những lời này khá ngẫu nhiên, nhưng cô bé lại phản ứng thật
nhanh.
“Có chứ ạ. Dĩ nhiên em chẳng biết tên thật của họ, bởi thế em phải cho
họ những cái tên tự mình đặt ra.”
“Chắc vui lắm,” tôi nói.
“Bà Hầu tước Carrabas ở dưới kia,” con bé vừa nói vừa chỉ trỏ. “Cái nhà
toàn cây cối um tùm chả chịu cắt xén gọn gàng. Anh biết rồi đấy, giống như
truyện Mèo đi hia. Bầy mèo của bà ấy đông quá trời đông.”