Cua ra về khoảng chừng mười hai giờ. Đôi khi bà cầm về một cái gói mà
khi đến bà chẳng có. Những mẩu bơ và phô mai, em nghĩ thế, vì chủ nhà
không thấy được. Em đặc biệt biết rõ những gì xảy ra hôm ấy, vì chị giúp
việc và em vừa có chuyện cãi nhau nho nhỏ, nên chị ấy chả chịu nói chuyện
với em. Em đang dạy chị ấy tiếng Anh, và chị muốn biết phải nói ‘cho tới
khi chúng ta gặp lại’ như thế nào. Chị phải nói câu ấy với em bằng tiếng
Đức. Aufwiedersehen. Em biết câu ấy vì đã một lần đến Thụy Sĩ, ở đấy
người ta nói như thế. Và họ còn nói Gruss Gott nữa. Nếu anh nói bằng
tiếng Anh thì câu đó là ‘that’s rude’.”
“Thế em bảo Ingrid nói gì?”
Geraldine bật cười khúc khích thật ranh mãnh. Nó định mở miệng nói
nhưng bị trận cười khúc khích ngăn cản lại. Rồi cuối cùng nó cũng thốt nên
lời: “Em bảo chị ta nói: ‘Get the hell out of here!’ Thế là chị ta nói câu ấy
với cô Bulstrode ở nhà kế bên, khiến bà ta điên tiết lên. Bởi thế Ingrid mới
phát hiện ra và rất giận em. Hai bên không thân thiện với nhau, mãi gần
đến giờ uống trà ngày hôm sau mới giảng hòa.”
Tôi chú ý ghi nhớ kỹ thông tin này.
“Vậy là em tập trung vào việc quan sát bằng ống nhòm xem opera hả?”
Con bé gật đầu.
“Đó là lý do làm sao mà em lại biết ông Curry không vào bằng cửa
trước. Chắc có lẽ ông ấy đã vào bằng cách nào đó trong đêm và trốn ở gác
mái. Anh nghĩ có thể như thế hay không?”
“Anh cho rằng chuyện gì cũng có khả năng, nhưng theo anh không thể
nào như vậy.”
“Không thể ư,” con bé nói, “thế nào ông ta cũng bị đói bụng, phải
không? Và ông ta không thể xin cô Pebmarsh cho ăn sáng, không thể nếu
ông ta đang trốn bà ấy.”
“Và chẳng có ai tới nhà ấy hay sao?” tôi hỏi. “Hoàn toàn chẳng có ai ư?
Chẳng có ai đi xe hơi — một chủ cửa hàng — những kẻ tới viếng nhà?”
“Chủ hiệu tạp hóa đến vào ngày thứ hai và thứ năm,” nó đáp, “còn người
giao sữa thì đến lúc tám giờ rưỡi sáng.”