Ông ngắt lời tôi. “Tôi vẫn luôn quan tâm đến những người phát hiện các
xác chết.”
“Nhưng cô gái đó đã gần như phát điên lên vì khiếp sợ. Giá ông anh
nghe thấy cô ta thét lên thế nào…”
Ông lại ném cho tôi một cái nhìn trêu chọc nữa, rồi nhắc rằng cô ta là
một cô gái cực kỳ hấp dẫn.
“Và làm sao nên nỗi cậu phải lang thang trên đường Wilbraham Crescent
vậy, Colin? Chiêm ngưỡng kiến trúc quý phái thời Nữ hoàng Victoria của
chúng ta, hay là cậu có mục đích riêng?”
“Tôi có mục đích chứ. Tôi cứ tìm mãi nhà số sáu mốt mà vẫn không ra.
Không lẽ số nhà đó không tồn tại?”
“Tồn tại chứ. Số nhà lên đến — tám tám lận mà, tôi nghĩ thế.”
“Nhưng ông anh xem đây này, Dick à, khi tôi đến số hai mươi tám,
Wilbraham Crescent đã tận cùng rồi.”
“Điều này vẫn luôn làm những người lạ nước lạ cái bị rối. Giá như cậu rẽ
phải ngược đường Albany rồi lại rẽ phải lần nữa, hẳn cậu đã thấy mình
đang ở nửa còn lại của Wilbraham Crescent. Nó được xây dựng kiểu lưng
tựa lưng, cậu thấy đấy. Các khu vườn tựa lưng vào nhau.”
“Hiểu rồi,” tôi nói khi cuối cùng ông ấy dài dòng giảng giải xong đặc
điểm địa dư này. “Giống như các quảng trường và vườn hoa ở London.
Quảng trường Onslow, đúng không? Hay là Cadogan. Anh bắt đầu đi xuôi
theo một bên của một quảng trường, và rồi đột nhiên nó hóa thành một khu
nhà hay những khu vườn. Ngay cả tài xế taxi cũng thường xuyên bị rối. Dù
sao cũng có số sáu mươi mốt. Có biết gì về người ở đó không, ông anh?”
“Sáu mốt ư? Để tôi xem… Chắc đấy là chủ thầu xây dựng Bland.”
“Trời ơi,” tôi nói. “Chết rồi.”
“Cậu không muốn tìm chủ thầu xây dựng sao?”
“Không. Hoàn toàn không định tìm chủ thầu xây dựng. Trừ phi — có lẽ
hắn chỉ vừa mới đến đây thôi. Mới vào nghề hả?”