không?”
“Vâng.”
“Thật đáng kinh ngạc cái cách hắn ta cố tiếp tục chuyển tài liệu ra ngoài
trót lọt trong một thời gian dài. Cậu nghĩ hẳn có người đã nghi ngờ.”
“Người ta đã không nghi ngờ, ông anh biết rồi đó. Khi trong đầu ông anh
mà đã đinh ninh đó là một anh chàng rất tốt, thì anh nghĩ hắn không thể
như thế.”
“Chắc hắn đã khôn lanh lắm,” Dick nhận xét.
Tôi lắc đầu.
“Không, tôi không nghĩ hắn khôn lanh, thật vậy đó. Tôi nghĩ hắn chỉ làm
theo lời sai bảo. Hắn đã được tiếp cận những tài liệu rất quan trọng. Hắn
cầm chúng đi ra ngoài, chúng được phôtô và trả lại cho hắn, rồi chúng lại
trở về chỗ cũ cũng trong ngày hôm ấy. Sắp đặt hay thật. Hắn đã tạo thói
quen ăn trưa hằng ngày ở những chỗ khác nhau. Chúng tôi nghĩ hắn đã treo
áo khoác của hắn lên ở chỗ lúc nào cũng có một cái áo khoác giống hệt như
thế — dù người đàn ông mặc cái áo khoác kia không phải lúc nào cũng là
cùng một người. Những cái áo khoác bị tráo đổi, nhưng người tráo đổi
không bao giờ nói với Larkin, và Larkin cũng không bao giờ nói với hắn.
Chúng tôi muốn biết thêm thật nhiều về cơ chế vận hành vụ việc ấy. Nó
được vạch kế hoạch thật kỹ lưỡng với lịch trình hoàn hảo. Ai đó cực kỳ
thông minh đã điều khiển việc này.”
“Và chính vì thế mà cậu vẫn lảng vảng quanh căn cứ Hải quân ở
Portlebury?”
“Phải, bọn tôi biết rõ đầu mối ở căn cứ Hải quân của vụ án, và bọn tôi
biết rõ đầu mối ở London. Bọn tôi còn biết đích xác lúc nào và ở đâu
Larkin lãnh tiền thù lao, và như thế nào. Nhưng có một lỗ hổng. Ở giữa hai
đầu mối ấy có một tổ chức rất nhỏ. Đó là bộ phận tụi tôi muốn tìm hiểu
thêm, vì đó là bộ phận có đầu não. Ở đâu đó có một bộ chỉ huy rất tài tình,
lên kế hoạch thật xuất sắc, để lại một dấu vết rối tung rối mù không phải
một lần mà có lẽ bảy tám lần gì đó.”