nghĩ rằng con đường ngắn nhất đến các cửa hàng và bưu điện phải đi ngược
lại theo lối kia trên đường Crescent chứ.”
“Còn tùy ông đi tới những cửa hàng nào,” bà chủ nhà nói. “Tất nhiên
theo lối đó các cửa hàng gần hơn và có một bưu điện trên đường Albany.”
“Nhưng có lẽ cô Pebmarsh vẫn thường đi ngang qua cổng nhà bà khoảng
chừng giờ ấy?”
“À, thật tình tôi không rõ cô Pebmarsh thường ra ngoài vào giờ nào hay
đi hướng nào. Thật tình tôi không theo dõi lối xóm đâu, ông thanh tra à. Tôi
là người bận rộn và có quá nhiều việc riêng. Một số người mà tôi biết dành
hết thời gian của họ nhìn qua cửa sổ và để ý ai đi ngang qua và ai ghé thăm
nhà ai. Nói đúng hơn đó là thói quen của những người đau yếu bệnh tật hay
những kẻ vô công rỗi nghề, không biết làm gì hơn ngoài đoán già đoán non
và ngồi lê đôi mách chuyện này chuyện nọ về nhà hàng xóm.”
Bà cô Waterhouse nói quá chua cay khiến ông thanh tra cảm thấy chắc
chắn trong đầu bà đang nghĩ tới một người cụ thể nào đó. Ông hấp tấp nói:
“Đúng thế đấy. Đúng thế đấy.” Ông nói thêm, “Bởi lẽ cô Pebmarsh đã đi
ngang qua cổng trước nhà cô, có thể bà ấy đi gọi điện thoại, phải không?
Đấy là chỗ buồng điện thoại công cộng?”
“Vâng, nó đối diện với nhà số 15.”
“Câu hỏi quan trọng tôi phải hỏi cô, thưa cô Waterhouse, cô có trông
thấy người đàn ông này đến hay không—người đàn ông bí ẩn, tôi e rằng
nhật báo buổi sáng đã gọi như thế.”
Chủ nhà lắc đầu: “Không, tôi không thấy ông ta hay bất cứ người viếng
thăm nào khác.”
“Cô đã làm gì từ một giờ rưỡi đến ba giờ?”
“Tôi dành chừng nửa giờ để giải ô chữ trên tờ The Times, hoặc chỉ được
chăng hay chớ, sau đó tôi đi vô bếp, rửa chén dĩa của bữa ăn trưa. Để tôi
xem nào. Tôi đã viết hai lá thư, ghi mấy tấm séc thanh toán các hóa đơn,
sau đó tôi lên lầu, chọn ra một số đồ mình muốn đem đi hấp tẩy. Tôi nghĩ
chính từ trong buồng ngủ của mình tôi đã để ý thấy nhà kế bên có lục đục.
Tôi nghe rõ mồn một ai đó kêu thét lên, vì vậy theo lẽ tự nhiên tôi đi ra cửa