Tôi hùng hồn kể tội mình. Tôi hạ mình xuống sát đất. Chỉ để mong nhỏ
Quyên tin bài thơ đó là của tôi và tôi viết ra chính là để tặng nó. Nhưng dù tôi
chấp nhận làm thân con kiến hèn mọn, văn dốt võ nát, nhỏ Quyên vẫn khăng
khăng:
- Khoa buồn cười quá! Tại sao Khoa cứ phải nhận mình là tác giả một bài
thơ vốn không phải của mình?
- Của Khoa mà!
Tôi nói như mếu, trông tôi lúc này giống hệt một em bé yếu ớt bị đứa bạn
to khỏe giành mất đồ chơi và đang nước mắt nước mũi sì sụt cố đòi lại.
Nhưng tôi xem ra còn thất thế hơn em bé đáng thương kia, bởi vì tôi không
có cách gì chứng minh được bài thơ đó là của mình. Phải chi trước đây tôi
gửi bài thơ đó đăng trên báo Bạn Trẻ, bây giờ tôi còn có thể chìa tờ báo ra để
làm "vật chứng" nhằm xác định bản quyền.
Đang nghĩ tới đó, óc tôi chợt lóe lên. Đúng rồi, tôi không có "vật chứng",
nhưng tôi còn "nhân chứng". Thằng Đông Anh còn sống sờ sờ kia chứ đã
chết đâu! Tôi mừng quýnh:
- A...
Tôi reo lên hớn hở. Nhưng tiếng reo vừa mới thốt khỏi cửa miệng bỗng
đột ngột tắt ngóm. Óc tôi lóe lên lần thứ hai, và lần này thì tôi hoang mang
thực sự: Hay thằng Đông Anh chính là bạn trai của nhỏ Quyên? Chết rồi,
đúng nó! Nó thương nhỏ Quyên nhưng không nghĩ ra cách nào tỏ tình bèn dụ
tôi làm thơ tặng em gái nó. Tôi là đứa dễ bị phỉnh phờ, mới nghe thằng Đông
Anh gian ác ca ngợi vài câu vờ vịt, liền tối về cặm cụi ngồi làm thơ "nộp" cho
nó. Và khi bài thơ tình tứ đó lọt vào tay, chắc chắn nó không đưa cho nhỏ
Đinh Lăng, mà ba chân bốn cẳng chạy tới "dâng" cho nhỏ Quyên, mạo nhận
nó là tác giả khiến nhỏ Quyên cảm động và hân hoan đáp lại tình cảm của nó.