NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU TRONG KINH DOANH - Trang 151

khoa học nào, các nhà nghiên cứu tại Battelle thử bổ sung vào

lưu huỳnh một lượng nhỏ selen, một nguyên tố phi kim trước đây

được sử dụng chủ yếu trong các điện trở và nguyên liệu tạo màu

để nhuộm màu đỏ cho kính. Bề mặt lưu huỳnh pha selen có phản

ứng tốt hơn một chút so với bề mặt chỉ thuần lưu huỳnh, thế là

mấy vị ở Battelle liền thử cho thêm một chút selen nữa. Phản

ứng thu được còn tốt hơn nữa. Cứ như thế dần dần họ tăng tỷ lệ

selen lên cho đến khi đạt được bề mặt 100% selen và 0% lưu

huỳnh. Phương án này phát huy hiệu quả tốt nhất và chuyện thật

mà như đùa, người ta phát hiện ra selen, và chỉ selen, là đủ để

thực hiện khả thi công nghệ xero.”</p>

<p class="calibre2">“Ngẫm mà xem”, Tiến sĩ Clark trầm ngâm nói.

“Một thứ đơn giản như selen, một nguyên tố trong gần 100 nguyên

tố trên trái đất này, lại còn phổ biến, ai dè lại là chiếc chìa

khóa vàng. Phát hiện ra công hiệu của nó nghĩa là đã gần tới

đích, nhưng bấy giờ chúng tôi đâu có biết điều này. Chúng tôi

vẫn sở hữu bằng sáng chế đối với việc sử dụng selen trong công

nghệ xero tức là bằng sáng chế cho một trong hàng trăm nguyên

tố. Ngay cả tận bây giờ, chúng tôi cũng chưa hiểu thực sự selen

hoạt động <em class="calibre5">như thế nào</em>. Chẳng hạn,

chúng tôi vẫn mù tịt việc tại sao selen không có hiệu ứng nhớ,

không một dấu vết nào từ những bản sao chụp trước đó được lưu

vết lại trên trống phủ selen, vì về lý thuyết, chất này dường

như có thể trường tồn vô hạn định. Trong phòng thí nghiệm, cái

trống selen không suy chuyển gì qua một triệu quy trình, ấy thế

nhưng không hiểu tại sao nó vẫn bị hao mòn. Như vậy, sự phát

triển của công nghệ in xero phần lớn là dựa trên thực nghiệm.

Chúng tôi là những nhà khoa học học hành bài bản chứ không phải

là mấy gã thợ hàn xoong miền Bắc vụng về, nhưng chúng tôi đã

cân bằng được việc hàn nồi hàn xoong bằng tìm tòi khoa

học.”</p>

<p class="calibre2">Sau đấy, tôi nói chuyện với Horace W.

Becker, một kỹ sư Xerox chịu trách nhiệm lớn nhất cho việc thúc

đẩy mẫu 914 từ phòng thí nghiệm ra dây chuyền sản xuất. Ông kể

cho tôi về những trở ngại và các mối nguy hiểm dựng tóc gáy

chung quanh tiến trình này. Khi ông đầu quân cho Haloid Xerox

năm 1958, phòng thí nghiệm của ông là chỉ là một cái chòi cúc

cu tọa lạc trên một cơ sở đóng gói hạt giống làm vườn ở

Rochester; mái nhà đã hư hại nên trong những ngày nóng nực,

những giọt hắc ín nóng chảy rỉ qua mái nhà và bắn tung tóe

xuống các kỹ sư và đám máy móc. Cuối cùng, chiếc 914 đã trưởng

thành trong một phòng thí nghiệm khác trên phố Orchard đầu năm

1960. “Vẫn là một phân xưởng cũ mòn, với chiếc thang máy cọt

kẹt và nhìn ra một đường tàu tránh dành cho những chiếc xe chở

đầy lợn đi qua,” Becker kể, “nhưng chúng tôi có đủ diện tích

cần thiết và không có mưa hắc ín. Chính nơi con phố Orchard này

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.