khoa học nào, các nhà nghiên cứu tại Battelle thử bổ sung vào
lưu huỳnh một lượng nhỏ selen, một nguyên tố phi kim trước đây
được sử dụng chủ yếu trong các điện trở và nguyên liệu tạo màu
để nhuộm màu đỏ cho kính. Bề mặt lưu huỳnh pha selen có phản
ứng tốt hơn một chút so với bề mặt chỉ thuần lưu huỳnh, thế là
mấy vị ở Battelle liền thử cho thêm một chút selen nữa. Phản
ứng thu được còn tốt hơn nữa. Cứ như thế dần dần họ tăng tỷ lệ
selen lên cho đến khi đạt được bề mặt 100% selen và 0% lưu
huỳnh. Phương án này phát huy hiệu quả tốt nhất và chuyện thật
mà như đùa, người ta phát hiện ra selen, và chỉ selen, là đủ để
thực hiện khả thi công nghệ xero.”</p>
<p class="calibre2">“Ngẫm mà xem”, Tiến sĩ Clark trầm ngâm nói.
“Một thứ đơn giản như selen, một nguyên tố trong gần 100 nguyên
tố trên trái đất này, lại còn phổ biến, ai dè lại là chiếc chìa
khóa vàng. Phát hiện ra công hiệu của nó nghĩa là đã gần tới
đích, nhưng bấy giờ chúng tôi đâu có biết điều này. Chúng tôi
vẫn sở hữu bằng sáng chế đối với việc sử dụng selen trong công
nghệ xero tức là bằng sáng chế cho một trong hàng trăm nguyên
tố. Ngay cả tận bây giờ, chúng tôi cũng chưa hiểu thực sự selen
hoạt động <em class="calibre5">như thế nào</em>. Chẳng hạn,
chúng tôi vẫn mù tịt việc tại sao selen không có hiệu ứng nhớ,
không một dấu vết nào từ những bản sao chụp trước đó được lưu
vết lại trên trống phủ selen, vì về lý thuyết, chất này dường
như có thể trường tồn vô hạn định. Trong phòng thí nghiệm, cái
trống selen không suy chuyển gì qua một triệu quy trình, ấy thế
nhưng không hiểu tại sao nó vẫn bị hao mòn. Như vậy, sự phát
triển của công nghệ in xero phần lớn là dựa trên thực nghiệm.
Chúng tôi là những nhà khoa học học hành bài bản chứ không phải
là mấy gã thợ hàn xoong miền Bắc vụng về, nhưng chúng tôi đã
cân bằng được việc hàn nồi hàn xoong bằng tìm tòi khoa
học.”</p>
<p class="calibre2">Sau đấy, tôi nói chuyện với Horace W.
Becker, một kỹ sư Xerox chịu trách nhiệm lớn nhất cho việc thúc
đẩy mẫu 914 từ phòng thí nghiệm ra dây chuyền sản xuất. Ông kể
cho tôi về những trở ngại và các mối nguy hiểm dựng tóc gáy
chung quanh tiến trình này. Khi ông đầu quân cho Haloid Xerox
năm 1958, phòng thí nghiệm của ông là chỉ là một cái chòi cúc
cu tọa lạc trên một cơ sở đóng gói hạt giống làm vườn ở
Rochester; mái nhà đã hư hại nên trong những ngày nóng nực,
những giọt hắc ín nóng chảy rỉ qua mái nhà và bắn tung tóe
xuống các kỹ sư và đám máy móc. Cuối cùng, chiếc 914 đã trưởng
thành trong một phòng thí nghiệm khác trên phố Orchard đầu năm
1960. “Vẫn là một phân xưởng cũ mòn, với chiếc thang máy cọt
kẹt và nhìn ra một đường tàu tránh dành cho những chiếc xe chở
đầy lợn đi qua,” Becker kể, “nhưng chúng tôi có đủ diện tích
cần thiết và không có mưa hắc ín. Chính nơi con phố Orchard này