thông vào một ngày cách đó khoảng một tuần. Tờ kia là bản sao
đề nghị của Goodrich cũng được trình lên tòa vào cùng ngày kể
trên, yêu cầu [bên cạnh các yêu cầu khác] vĩnh viễn cấm
Wohlgemuth tiết lộ bất kỳ bí mật kinh doanh thuộc về Goodrich
cho bất kỳ ai không có phận sự và cấm “được làm bất kì công
việc nào liên quan đến thiết kế, chế tạo và/hoặc kinh doanh các
trang phục chịu áp suất độ cao, trang phục phi hành gia và/hoặc
ngành may mặc bảo hộ tương tự cho bất kỳ công ty nào ngoài bên
nguyên”.</p>
<p class="calibre2">Người ta đã nhận thức được đầy đủ sự cần
thiết phải bảo vệ bí mật kinh doanh ngay từ thời Trung cổ, khi
các phường thủ công bảo vệ bí mật nghề nghiệp độc đoán đến mức
các thợ thủ công bị cấm tuyệt đối việc chuyển việc. Xã hội công
nghiệp áp dụng thuyết <em class="calibre5">tự do kinh
doanh</em> nhấn mạnh nguyên tắc mỗi cá nhân trong xã hội có
quyền phát triển bằng cách nắm bắt cơ hội tốt nhất mà anh ta có
được, thể hiện thái độ khoan dung hơn nhiều so với việc người
lao động nhảy việc trước đây; tuy nhiên, quyền giữ bí mật kinh
doanh của doanh nghiệp vẫn được duy trì. Theo luật pháp của Mỹ,
điều luật cơ bản về vấn đề này được thẩm phán Oliver Wendell
Holmes đặt ra sau khi có vụ án Chicago 1905. Holmes viết: “Bên
nguyên có quyền sở hữu thành quả mà bên nguyên đã làm ra hoặc
trả tiền để thuê người khác làm ra. Việc những người khác có
thể làm các công việc tương tự nếu họ muốn không có nghĩa là họ
được phép ăn cắp thành quả của bên nguyên”. Sắc lệnh này được
dẫn giải ra trong hầu hết các vụ kiện tụng về bí mật kinh doanh
từ đó đến nay nhưng mỗi năm, các tổ chức nghiên cứu khoa học và
công nghiệp ngày càng trở nên phức hợp hơn nên các câu hỏi yếu
tố nào cấu thành nên một bí mật thương mại và yếu tố nào cấu
thành nên việc ăn cắp bí mật thương mại cũng trở nên phức tạp
theo. “Bộ pháp điển của Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” của Viện Luật Hoa Kỳ, văn bản luật được ban hành năm
1939, đã giải đáp câu hỏi đầu tiên với việc tuyên bố “một bí
mật thương mại có thể bao gồm bất kỳ công thức, mô hình, thiết
bị hoặc tập hợp thông tin sử dụng trong cơ sở kinh doanh của
một đơn vị nào đó và mang đến cho đơn vị đó cơ hội để có được
lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh nào không biết hoặc
không sử dụng”. Trong vụ kiện năm 1952, tòa án bang Ohio đã
phán quyết phương pháp dạy khiêu vũ của Arthur Murray, mặc dù
độc đáo và hữu ích trong việc thu hút khách hàng từ các đối thủ
cạnh tranh, nhưng không phải là một bí mật kinh doanh. “Hầu hết
chúng ta đều có ‘cách của riêng mình’ để làm rất nhiều việc,
cách riêng trong chải tóc, đánh giày, cắt cỏ,” tòa nghiền ngẫm
một lúc lâu rồi kết luận rằng một bí mật kinh doanh không chỉ
là cái gì đó độc đáo, có công dụng về mặt thương mại mà còn
phải chứa đựng giá trị cố hữu bên trong. Còn vấn đề đâu là yếu
tố cấu thành nên tội ăn trộm bí mật kinh doanh thì trong một vụ