trình nấu cho thêm vào một số kim loại cơ bản và không thêm hàm
lượng bạc để đúc ra những đồng xu mới, một ông vua vô trách
nhiệm có thể chuyển từ 100 bảng Anh một cách kỳ diệu thành 110
bảng theo cách đó. Dưới thời Nữ hoàng Elizabeth I, việc này đã
chấm dứt, với một kế hoạch thận trọng đầy bất ngờ năm 1561, bà
đã cho thu và đúc lại những đồng xu cũ do những người tiền
nhiệm phát hành. Kết quả, cùng với tăng trưởng thương mại, uy
tín của đồng bảng Anh đã tăng lên ngoạn mục và gần một thế kỷ
sau cuộc cải cách của nữ hoàng Elizabeth, từ “sterling” đã
khẳng định ý nghĩa như nó vốn có: “tuyệt vời, khả năng chịu
đựng mọi thử thách”.</p>
<p class="calibre2">Đến cuối thế kỷ XVII, Ngân hàng Trung ương
Anh được thành lập để xử lý vấn đề tài chính của chính phủ,
tiền giấy bắt đầu được tin tưởng đưa vào sử dụng chung, nó được
bảo đảm bằng vàng và bạc. Thời gian trôi qua, uy tín của vàng
đã tăng đều đặn trong những mối quan hệ với bạc (trong thế giới
hiện đại, bạc không có chỗ đứng như một kim loại dự trữ tiền
tệ, ở vài quốc gia, bạc vẫn được sử dụng để đúc tiền xu), tuy
nhiên, chỉ đến năm 1816 khi nước Anh áp dụng chế độ bản vị vàng
– cam kết mua lại tiền giấy bằng vàng xu hoặc vàng miếng bất cứ
lúc nào. Đồng xô-vơ-ren, trị giá một bảng lần đầu tiên xuất
hiện năm 1817, tượng trưng cho sự ổn định, thịnh vượng và thậm
chí cả niềm vui cho người dân dưới thời nữ hoàng Victoria hơn
là thời Bagehot.</p>
<p class="calibre2">Thịnh vượng sinh thi đua. Thấy nước Anh
phát triển mạnh mẽ và tin rằng đó là nhờ chế độ bản vị vàng,
các quốc gia khác đã lần lượt học theo: Đức năm 1871; Thụy
Điển, Na Uy và Đan Mạch năm 1873; Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Ý và Hy
Lạp năm 1874; Hà Lan năm 1875; và Hoa Kỳ năm 1879. Nhưng kết
quả thật đáng thất vọng; hầu như không có kẻ nào nhận thấy bản
thân mình ngay lập tức trở nên giàu có và khi nhìn lại, dường
như sự hưng thịnh của nước Anh không phải là do chế độ bản vị
vàng mang lại mà do bản thân nó tiếp tục là ông vua của thương
mại thế giới. Trong nửa thế kỷ trước khi xảy ra Thế chiến thứ
nhất, London là trung gian tài chính quốc tế và đồng bảng Anh
là phương tiện gần như chính thức của nó. Như David Lloyd
George sau này đã hoài niệm viết về thời kỳ trước năm 1914: “âm
thanh của tờ ngân phiếu ở London”, với hàm ý rằng trong những
ngày đó, một tín dụng thư có chữ ký của một ngân hàng London
“có giá trị tại bất kỳ cảng vận chuyển nào trên thế giới văn
minh” vì họ đều biết nó được đảm bảo bởi chính các ngân hàng
Anh và có giá trị tương đương với tiền vàng. Nhưng chiến tranh
đã chấm dứt thời huy hoàng của đồng bảng bởi nó đã phá vỡ sự
cân bằng mỏng manh của các lực lượng, đem đến thách thức đối
với uy quyền tối cao của đồng bảng Anh – đó chính là đồng đô-la
Mỹ. Năm 1914, nước Anh gặp phải những khó khăn trong việc trang