trải cho các lực lượng chiến đấu của mình, nên thông qua một số
biện pháp giảm cầu đối với vàng, từ đó rời bỏ chế độ bản vị
vàng về mọi mặt ngoại trừ tên của nó; mặt khác, giá trị của một
đồng bảng so với đồng đô-la giảm từ 4,86 đô-la xuống mức thấp
là 3,20 đô-la năm 1920. Trong nỗ lực tìm lại sự vinh quang đã
mất đi, nước Anh khôi phục lại chế độ bản vị vàng đầy đủ vào
năm 1925, gắn chặt đồng bảng Anh với vàng ở tỷ giá trước đây
một bảng đổi được 4,86 đô-la. Nhưng cái giá phải trả cho việc
đánh giá quá cao này là cuộc suy thoái mãn tính trong nước,
không nói đến góc khuất chính trị trong 15 năm của Bộ trưởng
Tài chính, Winston Churchill, người đã ra quyết định này.</p>
<p class="calibre2">Sự sụp đổ chung của các đồng tiền trong
những năm 1930 không thực sự bắt đầu ở London, mà xảy ra ở Lục
địa. Mùa hè năm 1931, cuộc chạy đua bất ngờ của các ngân hàng
hàng đầu Áo, Creditanstalt dẫn đến thất bại. Nếu hiệu ứng
domino trong thất bại ngân hàng là có thật, thì nó hẳn đã đi
vào cuộc chơi. Tổn thất từ tai họa nhỏ này là một cuộc khủng
hoảng ngân hàng quy mô trên toàn nước Đức và sau đó, vì các tổ
chức ngân hàng của Anh ở Lục địa bị vỡ nợ, số lượng lớn các quỹ
của Anh ở các tổ chức này đã bị đóng băng, cơn hoảng loạn đã
vượt qua eo biển để xâm chiếm ngôi nhà của đồng bảng uy quyền.
Nhu cầu vàng để đổi lấy bảng nhanh chóng trở thành gánh nặng
đối với Ngân hàng Trung ương Anh, ngay cả khi có các khoản vay
hỗ trợ từ Pháp và Mỹ. Nước Anh đang phải đối mặt với những lựa
chọn ảm đạm như thiết lập tỷ lệ lãi suất ngân hàng gần như cắt
cổ từ 8%-10% nhằm giữ tiền ở London và kiểm soát các dòng chảy
của vàng hoặc là từ bỏ chế độ bản vị vàng. Phương án đầu tiên
có thể làm suy thoái thêm nền kinh tế nội địa, trong khi hiện
tại nước Anh đã có hơn hai triệu rưỡi người thất nghiệp và được
cho là không hợp lý. Do đó, ngày 21 tháng 9 năm 1931, Ngân hàng
Trung ương Anh công bố ngừng trách nhiệm bán vàng.</p>
<p class="calibre2">Động thái này như một tiếng sét đánh vào
giới tài chính. Đồng bảng có uy tín rất lớn năm 1931. Nhà kinh
tế học nổi tiếng người Anh, John Maynard Keynes, không hoàn
toàn mỉa mai khi nói rằng: bảng không rời bỏ vàng mà vàng đã
rời bỏ bảng. Trong cả hai trường hợp, hệ thống cũ đã mất chỗ
neo đậu và kết quả là sự hỗn loạn.</p>
<p class="calibre2">Trong vòng vài tuần, ở khắp mọi nơi, các
nước chịu sự thống trị về kinh tế hay chính trị của nước Anh
đều rời bỏ chế độ bản vị vàng, hầu hết các loại tiền tệ hàng
đầu cũng rời bỏ chế độ này hoặc bị mất giá mạnh so với vàng và
trên thị trường tự do giá trị của bảng so với đô-la đã giảm từ
4,86 đô-la xuống 3,50 đô-la. Khi đó, đồng đô-la – chỗ neo đỗ
mới tiềm năng – cũng trở nên lỏng lẻo. Năm 1933, nước Mỹ rơi
vào cuộc suy thoái trầm trọng nhất trong lịch sử, đã phải rời