của trang 567. Chỉ đến khi đọc đến phần về thuế xuất-nhập khẩu
(cùng với các thuế bất động sản và một vài thuế nhập khẩu khác
của liên bang) thì ta mới đọc được một câu dễ hiểu và thú vị
như: “Mỗi người xuất khẩu bơ oleomargarine<a href="note:"
title="31. Bơ thực vật có tên gốc tiếng Anh là margarine, tên
này xuất phát từ oleomargarine của Hippolyte và sau này bằng
sáng chế ra margarine đã được Hippolyte bán lại cho một công ty
Hà Lan có tên là Jurgens vào năm 1871 (công ty này là tiền thân
của Unilever hiện nay). Ngày nay, từ margarine nói chung trên
thế giới được dùng để chỉ cho tất cả các chất thay thế cho bơ,
không chỉ được sản xuất bởi mỡ bò và dạ dày heo mà còn được sản
xuất từ dầu thực vật như dầu hoa hướng dương, dầu đậu nành… nên
mới hay được gọi là bơ thực vật."><sup
class="calibre4">31</sup></a> sẽ đóng dấu ‘Oleomargarine’ trên
từng chiếc bồn, thùng nhỏ, hoặc bất kỳ bao bì nào chứa mặt hàng
này bằng ký tự La Mã đơn giản kích thước không nhỏ hơn 0,5
inch<a href="note:" title="32. 1 inch = 2,14cm."><sup
class="calibre4">32</sup></a>.” Nhưng một điều khoản ở trang 2
của luật này lại rõ ràng và thẳng thắn như người ta mong đợi:
nó xây dựng (không rối rắm) các mức thu nhập của từng cá nhân
sẽ phải nộp thuế như 20% cho thu nhập chịu thuế không vượt quá
2.000 đô-la; 22% cho thu nhập chịu thuế cao hơn 2.000 đô-la
nhưng không quá 4.000 đô-la; cứ tiếp tục như vậy cho tới mức
cao nhất 91% cho thu nhập chịu thuế hơn 200.000 đô-la. (Các mức
thuế này được điều chỉnh thấp xuống vào năm 1964 với mức cao
nhất là 70%). Ngay từ buổi đầu, luật này đã đưa ra tuyên bố về
nguyên tắc và nếu phán xét theo bảng mức thu, rõ ràng mang tính
quân bình, đánh thuế người nghèo tương đối nhẹ, người khá giả ở
mức vừa phải và người rất giàu ở mức gần tỷ lệ tịch thu.</p>
<p class="calibre2">Nhưng lại phải nhắc lại một điểm đã quá
quen thuộc: luật này chưa thực sự đạt được các nguyên tắc của
chính mình. Bằng chứng nằm ngay trong một số bảng công-nợ thuế
thu nhập – một hệ thống các tập có tựa đề <em
class="calibre5">Statistics of Income</em> (Thống kê thu nhập),
được Sở thuế vụ xuất bản hàng năm. Năm 1960, người nào có tổng
thu nhập rơi vào khoảng 4000 đến 5000 đô-la, sau khi đã tận trừ
hết các khoản khấu trừ, miễn giảm cá nhân và tận dụng mọi quy
định cho phép các cặp vợ chồng đã kết hôn và các chủ hộ gia
đình được hưởng mức thuế thấp hơn so với cá nhân độc thân –
cuối cùng nhận được trát tiền thuế tương tương tổng thu nhập
chịu thuế, trong khi đối tượng ở khoảng thu nhập 10.000 đến
15.000 đô-la nộp khoảng một phần bảy (tương đương 14%), đối
tượng ở khoảng thu nhập 25.000 đến 50.000 đô-la là chưa đầy một
phần tư (< 25%), và đối tượng ở khoảng thu nhập 50.000 đến
100.000 đô-la là khoảng một phần ba (33,33%). Rõ ràng đến chỗ
này, chúng ta đã thấy có một sự tịnh tiến theo khả năng nộp
thuế, như biểu thuế đã chỉ ra. Tuy nhiên, sự tịnh tiến này đột