ngột dừng lại khi đến nhóm thu nhập cao nhất, chính là mốc được
giả định là có sự khác biệt nhất. Vào năm 1960, các nhóm thu
nhập trong khoảng 150.000 đến 200.000 đô-la, 200.000 đến
500.000 đô-la, 500.000 đến 1.000.000 đô-la và trên 1 triệu đô-
la phải nộp chưa đến 50% thu nhập chịu thuế. Bằng chứng này
được khẳng định trong <em class="calibre5">Thống kê Thu
nhập</em> năm 1961, trong đó các số liệu về số tiền nộp thuế
được chia nhỏ theo từng nhóm thu nhập cho thấy dù có tới 7.487
người nộp thuế khai báo có tổng thu nhập là 200.000 đô-la hoặc
hơn, song trong số đó, chưa đến 500 người trong đó bị đánh thuế
ở mức 91% trên thu nhập ròng. Xuyên suốt vòng đời của thuế này,
tỷ lệ 91% là một liều thuốc an thần cho dân chúng, làm cho ai ở
trong khung thu nhập thấp hơn sẽ cảm thấy là may mắn khi không
thuộc lớp người giàu, đồng thời không làm tổn hại gì đến người
giàu cho lắm. Và, đỉnh cao câu chuyện khôi hài này là có những
người thu nhập cao nhất chỉ phải nộp mức thuế thấp nhất, nghĩa
là những người có thu nhập hàng năm là 1 triệu đô-la hoặc hơn
đã xoay xỏa tìm những các thức tuyệt đối hợp pháp để không phải
trả một xu thuế thu nhập nào. Theo <em class="calibre5">Thống
kê Thu nhập,</em> năm 1960 có 11 người như thế trên tổng số 306
triệu người có thu nhập sáu con số mỗi năm và năm 1961 có 17
trên tổng số 398 trường hợp. Nói trắng ra thì thuế thu nhập gần
như không có lũy tiến gì cả.</p>
<p class="calibre2">Lý giải cho sự cách biệt giữa bề ngoài và
thực tế khiến luật này bị nhiều người buộc tội là đạo đức giả
chính là từng ngoại lệ cụ thể đối với các mức tiêu chuẩn thông
thường, thường được gọi là những điều khoản về lợi ích đặc
biệt, hay nói trắng ra là lỗ hổng. Đáng lưu ý là kẽ hở này
không có trong luật thuế thu nhập đầu tiên hồi năm 1913. Làm
cách nào những kẽ hở này trở thành luật và vì sao vẫn còn là
luật là những câu hỏi liên quan cả đến chính trị và có thể là
cả siêu hình học, nhưng cơ chế hoạt động thực tế của chúng thì
lại khá đơn giản và dễ hiểu. Đến nay, phương pháp đơn giản nhất
để tránh thuế thu nhập, ít nhất cho những ai luôn sẵn vốn lớn
trong tay, đó là đầu tư vào trái phiếu của các bang, đô thị, cơ
quan quản lý cảng và đường có thu phí lưu thông. Trong những
năm gần đấy, lãi từ những trái phiếu cao cấp tăng từ 3 lên 5%
nên một người đầu tư 10 triệu đô-la vào trái phiếu có thể thu
về từ 300.000 đến 500000 đô-la một năm, miễn thuế, mà không gây
ra cho bản thân hay luật sư thuế của mình bất kỳ rắc rối gì dù
là nhỏ nhất. Nếu anh ta ngốc nghếch đến nỗi đổ tiền vào các đầu
tư thông thường chỉ sinh lợi nhuận tầm 5% chẳng hạn, anh ta sẽ
có một thu nhập chịu thuế là 500.000 đô-la. Và với mức thuế của
năm 1964, giả định rằng anh ta độc thân, không có thu nhập nào
khác và không lợi dụng thủ thuật lách thuế nào, anh ta sẽ phải
trả tiền thuế là gần 367.000 đô-la. Hầu như các vị bộ trưởng
tài chính đều đã xem xét việc miễn giảm này với một sự không