tiền mặt cần thiết để thực hiện quyền này; khi đã mua cổ phiếu
và bán lại, ông ta có thể trả hết nợ và có lãi vốn sinh sôi từ
việc đầu tư không mất vốn. Cái hay của nó, nếu nhìn từ góc nhìn
của công ty, là họ có thể đền bù một phần cho các giám đốc này
bằng khoản tiền mặt bị đánh thuế ở mức tương đối thấp. Dĩ
nhiên, toàn bộ kế hoạch này sẽ phá sản nếu cổ phiếu của công ty
rớt giá, điều này đôi khi vẫn xảy ra, nhưng cho dù như thế thì
vị giám đốc vẫn có cơ hội thắng lớn và hầu như không bị nguy cơ
mất mát gì.</p>
<p class="calibre2">Với sự thiên vị lãi vốn hơn so với thu nhập
thông thường, luật này đưa ra hai khái niệm rất thiếu minh
bạch: loại hình thu nhập phi lao động xứng đáng hơn bất kỳ hình
thức thu nhập từ lao động nào khác, người có tiền để đầu tư thì
xứng đáng hơn người không có tiền. Hầu như chẳng ai đồng tình
với sự biện minh rằng việc ưu đãi dành cho lãi vốn là dựa trên
cơ sở công bằng và có khuynh hướng đồng ý với Hellerstein: “Từ
quan điểm xã hội học, có rất nhiều thứ để biện hộ cho sự đánh
thuế lợi nhuận từ việc tăng giá trị của tài sản nhiều hơn lợi
nhuận từ thu nhập dịch vụ cá nhân.” Thứ nhất, có một thuyết
kinh tế đúng đắn ủng hộ sự miễn trừ hoàn toàn lãi vốn trong
thuế thu nhập lập luận rằng trong khi lương và cổ tức hay lãi
từ đầu tư là trái ngọt của cái cây vốn, do đó là thu nhập chịu
thuế, thì lãi vốn đại diện cho sự tăng trưởng của chính cái
cây, nên nó không phải là thu nhập. Sự phân biệt này thực tế
được áp dụng trong các luật thuế của một số quốc gia, chủ yếu
nhất là trong luật thuế của Anh với nguyên tắc không đánh thuế
vào lãi vốn cho đến năm 1964. Một lập luận khác cho rằng điều
khoản về lãi vốn là cần thiết để khuyến khích người dân mạo
hiểm với vốn của mình. (Tương tự, những người ủng hộ quyền cổ
phiếu cho rằng các công ty cần nó để thu hút và giữ chân lãnh
đạo tài năng.) Cuối cùng, gần như toàn bộ quan chức thuế đều
nhất trí rằng việc đánh thuế đối với lãi vốn trên cùng một cơ
sở như những thu nhập khác, việc mà hầu hết các nhà cải cách
đều cho rằng nhất thiết phải thế, sẽ vướng vào những khó khăn
khủng khiếp về mặt kỹ thuật.</p>
<p class="calibre2">Các đối tượng cụ thể là người giàu và người
hưởng lương cao có thể tận dụng nhiều con đường trốn thuế khác,
trong đó có kế hoạch hưu trí của các doanh nghiệp, đóng góp vào
việc giải quyết các vấn đề thuế của các giám đốc; các quỹ miễn
thuế trá hình được dựng lên cho các mục đích từ thiện và giáo
dục, trong đó hơn 15.000 người cùng góp sức để giảm gánh nặng
thuế cho các nhà hảo tâm, cho dù các hoạt động nhân đạo và giáo
dục của một số quỹ có phần nào đó vô hình; các công ty cổ quyền
tư hữu, ràng buộc bởi những quy định khá chặt chẽ, tạo điều
kiện cho các cá nhân với những thu nhập rất cao từ các dịch vụ
cá nhân như viết lách và diễn xuất giảm các khoản thuế của mình