tán thành, nhưng chưa ai có cách để làm cho nó bị bác bỏ.</p>
<p class="calibre2">Có lẽ điều khoản lợi ích đặc biệt quan
trọng nhất trong luật này là điều khoản liên quan tới lãi vốn.
Bộ máy của Ủy ban Kinh Tế kết hợp của Quốc hội đã viết trong
một báo cáo năm 1961 như sau: “Đãi ngộ đối với lãi vốn đã trở
thành một trong những kẽ hở lớn nhất trong cơ cấu thuế liên
bang.” Về bản chất, điều khoản này quy định, một người nộp thuế
có khoản đầu tư vốn (vào bất động sản, công ty, cổ phiếu khối
lượng lớn hay bất kỳ hạng mục nào khác), duy trì vụ đầu tư đó
ít nhất là sáu tháng, sau đó bán đi có lãi thì phải chịu thuế
đối với khoản lãi đó thấp hơn mức thuế đánh vào lợi nhuận thông
thường, cụ thể hơn là chỉ bằng một nửa mức thuế cao nhất mà
người đó phải trả hoặc một phần tư của mức nào thấp hơn. Bài
toán này có ý nghĩa thế nào đối với một người có thu nhập bị
buộc vào khung thuế rất cao thật quá rõ ràng: anh ta phải tìm
một cách để hợp thức hóa thu nhập đó dưới hình thức lãi vốn
càng nhiều càng tốt. Hệ quả là “trò chơi” tìm cách biến lợi tức
thông thường thành lợi tức vốn trở nên rất được ưa chuộng trong
một, hai thập kỷ vừa qua. Thường thì ai chơi cũng thắng mà
không mất nhiều công sức. Trên một chương trình truyền hình
buổi tối giữa thập nhiên 1960, David Susskind đã hỏi sáu đại
triệu phú đang có mặt là có ai trong số họ xem thuế là một
chướng ngại vật cản trở con đường đi đến vinh hoa ở Mỹ hay
không. Một sự im lặng kéo dài, cứ như thể đây là một ý niệm mới
mẻ đối với các vị đó, một lúc sau, một người, đề cập đến quy
định về lãi vốn và nói rằng ông ta không xem thuế là nguyên
nhân chính của việc đó. Buổi tối hôm đó họ không bàn luận gì
thêm về mức thuế cao.</p>
<p class="calibre2">Nếu quy định về lãi vốn và việc miễn thuế
cho một số trái phiếu nhất định giống nhau ở chỗ có lợi chủ yếu
cho người giàu thì chúng lại khác nhau ở các khía cạnh khác. Ví
dụ, người ta hay nghĩ rằng một người nộp thuế sẽ cần phải có
vốn trước khi anh ta có lãi vốn. Nhưng một cách được khám phá
ra và được phê chuẩn thành luật vào năm 1950 đã khiến người này
có thể có lãi vốn trước khi có vốn. Đây là điều khoản quyền cổ
phiếu. Theo điều khoản của luật này, một công ty có thể cho các
giám đốc điều hành của mình quyền mua cổ phiếu công ty vào bất
kỳ thời điểm nào trong một thời gian quy định, chẳng hạn năm
năm, với giá bằng hoặc gần bằng giá thị trường công khai vào
thời điểm mở bán cổ phiếu. Sau này, như vẫn thường xảy ra, nếu
giá cổ phiếu tăng cao chất ngất, các giám đốc điều hành này có
thể lựa chọn mua cổ phiếu ở giá cũ, để sau đó bán ra ngoài thị
trường tự do với mức giá mới, hoặc chỉ trả lãi vốn cho mức
chênh lệch. Cái hay của nó, theo quan điểm của vị giám đốc, một
khi cổ phiếu đã tăng mạnh về giá trị thì quyền của ông ta trở
thành một hàng hóa có giá trị, từ đó, ông ta có thể vay lượng