NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU TRONG KINH DOANH - Trang 96

bằng với khoản tiền góp vốn vào công ty. Tuy nhiên, trong loạt

những kẻ hở của luật này, kẽ hở bị căm ghét nhất có lẽ là khoản

khấu trừ cạn kiệt tài nguyên đối với dầu mỏ. Khi thuật ngữ “cạn

kiệt” được sử dụng trong luật, ám chỉ việc cạn kiệt ngày càng

gia tăng của những tài nguyên tự nhiên không thể thay thế,

nhưng khi được sử dụng vào tờ khai thuế của người làm dầu mỏ,

nó là cách nói văn vẻ của cái bình thường vẫn được gọi là khấu

hao. Khi một nhà sản xuất có thể đòi tiền khấu hao cho máy móc

dưới dạng khấu trừ thuế chỉ khi người đó đã khấu trừ chi phí

gốc của máy, một nhà đầu tư dầu lửa vẫn có thể tiếp tục đòi

được hao giảm theo tỉ lệ phần trăm vô thời hạn trên một giếng

dầu đang hoạt động, cho dù điều đó có nghĩa là chi phí gốc của

giếng dầu đã được hoàn lại rất nhiều lần rồi. Tỷ lệ khấu trừ

cạn kiệt dầu là từ 27,5%/năm đến mức tối đa là 50% tổng thu

nhập ròng của nhà đầu tư dầu (tỷ lệ này áp dụng cho các tài

nguyên thiên nhiên khác là nhỏ hơn, chẳng hạn 23% trên uranium,

10% trên than đá và 5% trên vỏ sò, vỏ trai); tác động của khấu

trừ này trên thu nhập chịu thuế của một nhà đầu tư dầu, đặc

biệt là khi cộng hưởng với tác động của các công cụ tránh thuế

khác, thật đáng kinh ngạc! Ví dụ, năm năm gần đây, một nhà dầu

mỏ có thu nhập ròng là 14,333 triệu đô-la thì ông ta phải nộp

80.000 đô-la thuế hay 0,6%. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi

khoản khấu trừ cạn kiệt tài nguyên này luôn bị công kích, nhưng

cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi nó được bảo vệ mạnh mẽ, đến nỗi

ngay cả Tổng thống Kennedy trong những đề xuất sửa đổi thuế năm

1961 và 1963 cũng không dám đề xuất bác bỏ nó. Lập luận thường

thấy là việc tính hao giảm theo tỷ lệ phần trăm này là yếu tố

cần thiết để bồi hoàn cho người làm dầu trước những rủi ro liên

quan đến việc khoan thăm dò, do đó bảo đảm đủ nguồn cung dầu

cho cả nước. Nhưng nhiều người cảm thấy luận điểm này như muốn

nói: “Ưu đãi thuế tài nguyên là một sự bao cấp rất cần thiết và

đáng mong muốn của liên bang dành do ngành dầu khí”. Tuy nhiên,

vì việc bao cấp cho các ngành riêng lẻ hầu như không phải là

nhiệm vụ thích hợp của thuế thu nhập.</p>

<p class="calibre2">Luật thuế thu nhập 1964 gần như không làm

gì để bịt lại kẽ hở này, nhưng đã vô hiệu nó được phần nào,

việc giảm mạnh các mức thuế đánh vào thu nhập cao có lẽ đã

khiến một số người nộp thuế thuộc nhóm này không còn phải loay

hoay với những mánh lới kém thuận tiện hoặc kém hiệu quả. Chừng

nào dự luật thuế mới thu hẹp được khoảng cách giữa lời hứa và

thành quả của luật, thì, nó mới là hiện thân của một loại hình

cải cách tự sinh. (Một cách để khắc phục <em

class="calibre5">triệt để</em> việc trốn thuế thu nhập sẽ là

bác bỏ thuế thu nhập.) Tuy nhiên, luật này có những đặc điểm có

thể nhận thức rõ và gây xáo trộn nhất định vẫn chưa được sửa

đổi và có lẽ đặc biệt khó thay đổi trong tương lai. Một số đặc

điểm có liên quan tới các phương pháp cho phép và không cho

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.