NHỮNG DI CHÚC BỊ PHẢN BỘI - Trang 84

ở tất cả các người dịch.

Nhìn chung, ta thấy các dịch giả (vâng lời các vị giáo sư ở trường trung
học) có xu hướng hạn chế các lặp lại.

Ý nghĩa ngữ nghĩa học của một sự lặp lại
Hai lần die Fremde, một lần die Fremdheit, bằng sự lặp lại này tác giả đưa
vào văn bản của mình một từ mang tính chất một khái niệm - chìa khóa,
một quan niệm. Nếu tác giả, từ chính từ này, phát triển một suy tư dài, thì
sự lặp lại của chính từ đó là cần thiết và logic. Hãy tưởng tượng người dịch
Heidegger, để tránh lặp lại, dùng thay vào chỗ của từ "das Sein" một lần là
"sinh linh", rồi "cuộc sống", rồi lại "cuộc sống con người" và, cuối cùng
"sinh linh ấy". Chẳng làm sao biết được có phải Heidegger nói về mỗi một
cái đó được gọi theo các cách khác nhau, hay nói về những cái khác nhau,
thay vì một văn bản logic một cách chặt chẽ, ta sẽ có một mớ bùng nhùng.
Văn xuôi tiểu thuyết (tất nhiên, tôi nói về những tiểu thuyết xứng đáng với
tên gọi đó) đòi hỏi một sự chặt chẽ như vậy (nhất là ở những đoạn có tính
chất suy tưởng hay ẩn dụ).

Nhận xét khác về sự cần thiết phải giữ những chỗ lặp lại
Một đoạn sau đó trong cùng trang của cuốn Lâu đài:
"... Stimme nach Freida gerufen wurde. "Freida", sagte K. in Freidas Ohr
und gab so den Ruf weiter."

Sát từng từ có nghĩa là: "... có một giọng nói gọi Freida. "Freida," K. nói
vào tai Freida, truyền lại tiếng gọi đó."
Các dịch giả muốn tránh lặp lại ba lần tên Freida.
Vialatte: "Freida!" anh ta nói vào tai người hầu gái, truyền lại tiếng gọi..."
Còn David: "Freida," K. nói vào tai người bạn gái của mình, truyền lại cho
cô..."
Những từ thay thế cho tên Freida nghe thật lạc điệu! Nên nhớ rằng K.,
trong văn bản cuốn Lâu đài, chỉ luôn luôn là K. Trong đối thoại, những

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.