trong túi và kiếm sống bằng cách nuôi các gia đình người di cư khác, ông
vẫn rất tự hào rằng cô con gái út của mình kiếm tiền bằng cái đầu chứ
không phải bằng chân tay.
“Đi thôi,” cô nói, không muốn nghĩ về bố.
Angie ra khỏi xe và vòng ra chỗ thùng xe. Nó mở ra không một tiếng
động, để lộ một hộp các tông hẹp. Bên trong hộp là một chiếc bánh gatô
thừa thãi sô cô la do công ty Pacific Dessert sản xuất và một chiếc bánh
nhân chanh ngon-đến-chết-đi-được. Cô cúi xuống lấy hộp, biết rằng thể nào
cũng sẽ có người nhận xét về chuyện cô chẳng thể nấu nướng. Là con gái út
– “nàng công chúa”- cô được phép tô màu hoặc tán gẫu trên điện thoại hay
xem ti vi trong khi các chị cô cặm cụi trong bếp. Chẳng có bà chị nào của
cô lại không nhắc cô nhớ rằng bố đã chiều chuộng cô quá mức. Lớn lên,
các chị của cô vẫn làm việc trong tiệm ăn của gia đình. Đó mới thực sự là
công việc, họ luôn nói thế, chứ không như cái sự nghiệp của Angie trong
ngành quảng cáo.
“Nào đi,” Conlan nói, nắm lấy cánh tay cô.
Họ bước trên lối đi bằng bê tông, qua đài phun nước có tượng Đức Mẹ
Đồng trinh, và bước lên thềm. Một bức tượng Jesus đứng bên cửa ra vào,
tay đưa ra chào đón. Ai đó đã treo một chiếc ô lên cổ tay tượng.
Conlan gõ cửa lấy lệ và mở cửa ra.
Ngôi nhà huyên náo bởi tiếng ồn – tiếng người nói to, những đứa trẻ
chạy lên chạy xuống cầu thang, đá lạnh đổ vào xô, tiếng cười. Lớp lớp áo
khoác, giày dép và hộp đựng đồ ăn rỗng chất lên mọi đồ đạc trong nhà.
Phòng gia đình đông đặc trẻ con đang chơi các trò chơi. Bọn nhóc thì
chơi Candy Land, lớn hơn một chút thì chơi tú lơ khơ. Jason, cháu trai lớn
nhất của cô cùng với cô cháu gái Sarah đang chơi Nintendo trên ti vi. Angie
vừa vào, bọn trẻ reo lên và nhào vào cô, tất cả cùng nhao nhao, cố gắng thu
hút sự chú ý của cô. Theo những ký ức đầu tiên của chúng, cô là người sẵn
lòng quỳ xuống sàn và chơi với bất kỳ đồ chơi nào đang là mốt ở thời điểm
đó. Cô chẳng bao giờ vặn nhỏ nhạc đi hay nói rằng bộ phim này không phù
hợp với chúng. Nếu được hỏi, chúng luôn bảo rằng cô Angie “hơi bị hay”.