NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 124

giúp đỡ cho lễ cưới diễn ra, như chiếc bàn cưới, chiếc gậy cưới, chiếc gậy bài... để "cảm ơn
chiếc bàn cưới nội ngoại" (Dân ca 2009). Ở đây chúng ta thấy tồn tại một vấn đề, vạn vật
trong thế giới với người H’mông thì không xa lạ, nó thiết thân, nó gần gũi, nó giao cảm với
con người, như anh em tương trợ. Người với vật là một thể dung thông. Nên, người
H’mông mới cất lời ca nhằm cảm ơn những đồ vật giúp mình trong lễ cưới. Và chắc chắn,
từ thẳm sâu, người H’mông tin/biết đồ vật hiểu thấu tấm lòng họ. Chính vì thế, ta thấy
trong rất nhiều dịp lễ, người H’mông luôn thể hiện mối cộng thông với vạn vật xung quanh,
như dịp năm mới chẳng hạn. Trong năm mới, người H’mông ở Mai Châu, Hòa Bình luôn
cho gia súc ăn no, thu rửa dụng cụ lao động sạch sẽ rồi dán lên tờ giấy bạc (ý là quí như
bạc

[105]

), để đồ vật vào gần nơi bàn thờ tổ tiên. Hoặc ở Sa Pa, người H’mông lại dán giấy

đỏ, màu của niềm vui, cho nông cụ nghỉ ngơi ba ngày tết (10 đến 12/12 âm lịch) (Nguyễn
Trường Giang 2011: 152). Người H’mông luôn tin đó là cách bày tỏ sự trân trọng và vật
dụng sẽ được nghỉ ngơi sau một năm làm ăn vất vả. Điều này cũng tương đối giống người
Việt. Lấy ví dụ ở Huế và vùng phụ cận, ngay cả đến bây giờ, tôi vẫn thường xuyên nhìn
thấy khi nhà có tang thì cây cối quanh vườn cũng được gia chủ đeo khăn tang, một mảnh
vải trắng quấn quanh. Bởi, người Việt cho rằng cây cối cũng là thành viên trong gia đình
nên cũng buồn, cũng đau vì cái sự ra đi vĩnh cữu của vị chủ nhân. Một thế kỷ trước,
Cadièrre thuật lại những chi tiết thật sinh động: "Một điều đáng ghi nhận đó là không chỉ
những hành vi động tác được đặt dưới sự bảo trợ của thần linh mà những nông cụ hành
nghề cũng được kí thác cho họ vào đầu năm: thợ rèn dán giấy vàng bạc vào đe, vào bệ, vào
búa; thợ đóng thuyền thì dán vào mạn thuyền; kẻ thuê thuyền chuyên chở thì cắm hoa vào
cột chèo; chị bán hàng chợ, người mẹ trong gia đình, thì dán vào thúng vào vại, vào chum,
rương, lẫm, vào bất cứ cái gì sinh phúc lợi trong nhà. Như thế, hành động dán giấy vàng
giấy bạc ấy cũng là một hành vi tôn giáo. Đó là lễ cúng đối với hữu thể siêu nhiên mà ta
muốn cầu cạnh. Việc cúng bái của những người lính ở Huế với Cột cờ, với các cửa thành,
với kho lẫm của nhà vua, với ngục thất... tất tất đều biểu hiện sự tin tưởng vào sức mạnh
huyền bí, vào các hữu thể siêu nhiên đang dẫn dắt hành vi, các công cụ và đảm bảo hiệu
năng của chúng. Người thợ cơ khí ngành hỏa xa cũng vậy, cũng ngần ấy tín ngưỡng. Họ
cắm hương, cúng máy; thợ đóng trụ cầu sắt thép cũng cầu xin hỗ trợ của các thần linh mà
trước nay chưa từng có ở xứ này (Cadièrre 2010a: 40). Những mô tả của Cadièrre như trên
đối với người Việt, ngày nay đây đó dù có thể vẫn còn sót lại nhưng trên nền rộng lớn đã
tương đối lu mờ. Nhưng càng lên cao, vùng trung du và núi, thì chúng ta vẫn bắt gặp lễ
thắp hương, dán giấy bạc, vàng, đỏ và treo bánh lên đồ vật nông cụ như người H’mông, hay
người Dao Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, hoặc người Mường ở Thu Cúc, Phú Thọ như
những ghi nhận phổ biến mà tôi đã thu nhận được. Hình thức tín ngưỡng này, như Cadièrre
cắt nghĩa là "lễ cúng đối với hữu thể siêu nhiên mà ta muốn cầu cạnh", rộng ra là tín
ngưỡng vật linh rộng khắp, là bản chất của thế giới Đông Nam Á

[106]

. Trường vật linh kiến

tạo niềm cộng thông với vũ trụ và vạn vật là cấu trúc tinh thần chung của các tộc người

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.