"Trong vườn của mẹ cha em có cây kiệu lòa xòa xanh thắm
Ta yêu em đến nát cả thớ gan
Trong vườn của mẹ cha em có cây hành lòa xòa xanh biếc
Ta yêu em đến đứt cả thớ tim"
(Doãn Thanh 1984)
hay:
"Em trao bàn tay anh cầm
Gan phổi anh như lá cây rung trước gió
Em chìa bàn tay anh nắm
Gan phổi anh như thấm đượm nước mưa xuân"
(Doãn Thanh 1984)
Những bản dịch tuyệt vời của "ông tiên núi" Doãn Thanh, mà Hùng Đình Quí đã
không dưới vài lần bày tỏ lòng khâm phục với tôi, đã cho thấy, luôn có một "diễn ngôn"
liên tục tái lặp chất liệu trong dân ca H’mông, nhất là dân ca tình yêu: "câu hát sắp hết câu
hát lại chưa hết...". Ở trong kho tàng dân ca các tộc người, việc một câu hát liên tục lặp đi
lặp lại đầu mỗi đoạn bài hát dân gian như là một biện pháp nghệ thuật nhằm tạo nhạc, giữ
nhịp, làm thành vòng luân hồi của phận chữ là phổ biến
. Nhưng vấn đề mấu chốt là mỗi
một tộc người luôn có một chuỗi ngữ ngôn mang nghĩa tái lặp khác nhau - đấy là chỗ vấn
đề đọng lại - phân tâm học văn bản nghiên cứu vô thức ngôn từ cho biết, ở chỗ nào mà
chuỗi lời nói cứ tái lặp đi lặp lại, một lối nói nhịu trong sáng tạo, thì nơi ấy ắt chứa đựng
những "vết tích" tâm lí đặc biệt, kiểu "ám ảnh" ngữ ngôn quyết định số phận nghĩa văn bản.
Chuỗi diễn ngôn tái lặp trong dân ca H’mông, vì thế nên, là cái biểu trưng cho vô thức tập
thể tộc người, do đó, nghĩa của nó luôn rối rắm và bí lối, nhưng không phải vô nghĩa, nó
mang nghĩa vô thức. Có thể nào, với H’mông tộc, quan niệm về cuộc đời cũng như cuộc
hát, mà những câu hát thì bất tận, tưởng như hết mà không hết, chỉ hết khi "mình chết thật"
(lời Tang ca). Và tình yêu, cũng như câu hát ngàn đời là bất tận, không sao nguôi nỗi nhớ
nhung:
"Câu hát sắp hết câu hát lại chưa hết
Chưa hết như hang sâu đá bạc
Đưa tới hang thẳm đá sáng
Em thương nhớ ta hàng năm
Ta thương nhớ em hàng đời"
(Doãn Thanh 1984)