NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 280

[11]

Truyện cổ H’mông thường nói về nỗi “sợ biển” của họ (Doãn Thanh, Thương

Nguyễn, Hoàng Thao 1963: 43)

[12]

Trong nghiên cứu này, như lối nghĩ đã quen thuộc, Việt và Kinh là hai từ được sử

dụng với nghĩa tương đương. Tuy nhiên, ngoài những chỗ phải chép nguyên văn từ tác giả
khác, tôi chủ yếu sử dụng Việt mà hạn chế sử dụng Kinh. Bởi Việt có một quá khứ lâu đời,
còn Kinh là tộc danh khác của Việt có lịch sử muộn hơn, dường như chỉ xuất hiện từ khi có
ý thức phân biệt Kinh (Việt) với Trại (chỉ người vùng biên viễn, chưa được giáo hóa) xuất
hiện cụ thể ở thời nhà Trần. (Toàn thư chép năm 1256, đời Trần Thái Tông: Trần Quốc Lặc
đỗ kinh trạng nguyên; Trương Xán đỗ trại trạng nguyên). Còn Việt Nam là từ nhằm chỉ
quốc gia đa tộc người, trong đấy, người Việt là tộc đa số.

[13]

Nguyễn Đổng Chi thì cung cấp một dị bản khác nhưng cùng cấu trúc nghĩa bề sâu:

ở núi là định mệnh của người H’mông. Vị vua đầu tiên của người Mèo, ba năm nằm trong
lòng mẹ mới chịu ra đời. Trong một lần tranh đất với những người láng giềng, họ thách
nhau và giao hẹn chạy thi trong một ngày một đêm, ai chạy tới đâu thì phải ở đó. Người
Mèo chạy đến khi mặt trời lên thì đúng khi ở trên núi. Từ đấy, người Mèo ở núi (Nguyễn
Đổng Chi 2003: 54).

[14]

Cho dù, có giả thuyết nói về người H’mông (tổ tiên là Miêu) từ rất sớm là tộc

trồng lúa nước, căn cứ vào những dữ liệu chính sau: 1/tộc danh Miêu (

苖: Miáo) trên là bộ

“thảo” nghĩa “mạ non”, dưới là bộ “điền” chỉ “ruộng”, ám chỉ người Miêu (tổ tiên xưa của
H’mông) là người trồng lúa [học giả Đào Duy Anh còn cung cấp thêm chi tiết Thần Nông
tổ nghề nông nghiệp còn là thủy tổ họ vua Tam Miêu (2003c: 695). Đinh Xuân Lâm - Trần
Quốc Vượng cho biết người Mèo có giống lúa Miêu, và người Mèo thường nói “ông Thần
nông của người Mèo” (1967: 33)]; 2/kỹ thuật canh tác lúa nước trong ruộng bậc thang đòi
hỏi kĩ thuật rất phức tạp, thể hiện cho trình độ trồng lúa nước phát triển cao; 3/Người
H’mông là chuyên gia chế nông cụ mà cày Mèo là một ví dụ; 4/con trâu vật tổ của cư dân
nông nghiệp có ý nghĩa đặc biệt với người H’mông, nhà của họ là một con trâu tượng
trưng, mà ở cửa chính phía bên trong nhà luôn có biểu tượng đôi sừng...

[15]

Món thắng cố ngựa được biết đến là món ăn “truyền thống” của người H’mông,

thực ra, chỉ là một truyền thống mới được kiến tạo. Người H’mông trước đây chỉ ăn thắng
cố bò, trâu, chó, lợn mà không ăn thắng cố ngựa. Thắng cố ngựa chỉ có ở vùng Nùng, La
Chí, mãi sau này, khi mọi thứ trong truyền thống đã suy yếu, người H’mông mới ăn thắng
cố ngựa. Việc người H’mông ngày nay ăn thắng cố ngựa phần nào đấy giống người Dao
giờ đây đã ăn thịt chó. Ở điểm này, những thăng trầm của lịch sử, biến đổi của văn hóa đã
hiện lên, bốc khói trong nồi thắng cố.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.