“Tiểu ngạch” - lối đi nhỏ, là cách người dân ở cao nguyên đá chỉ đường đi sang
Trung Quốc làm thuê kiểu “vượt biên”. Cuộc sống khó khăn, một năm chỉ làm một vụ,
khiến nhiều người dân phải bỏ sang Trung Quốc làm thuê. Họ cho biết, sang Trung Quốc,
một người một ngày chỉ vác chuối thuê tiền công cũng được từ 100 - 120 nhân dân tệ, so ra
tiền Việt Nam xấp xỉ 400.000 ngàn đồng. Một con số mơ ước với cuộc sống còn quá nhiều
khó khăn của người dân nơi đây (số liệu thực địa, ghi nhận vào thời điểm tháng 5 - 2013).
Tỉnh Tuyên Quang (Đồng Khánh 2002: 855).
Những người ở miền xuôi đã không bao giờ có thể tưởng tượng đầy đủ sự thần
tình của các bàn chân leo núi truyền kiếp, như những người H’mông. Một sự kiện quan
trọng nhất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, chiến dịch Điện Biên Phủ là một minh chứng
sống động cho điều này. Những người Pháp đặt tin tưởng vào người Thái trắng (tộc thống
trị Tây Bắc ở vùng thung lũng của miền núi) đã không bao giờ tin nổi Việt Minh có thể kéo
trọng pháo lên những ngọn núi cao. Với họ, đó là điều không thể. Nhưng những người Việt
Minh, mà thủ lĩnh của họ rất thông thạo miền núi, đều có thể nói thạo vài thứ tiếng tộc
người đã tranh thủ được tình cảm của phần đông người Thái bị trị (Thái đen) và người Mèo
(lối gọi phổ biến thời ấy). Chính những người chủ những đỉnh núi cao này, những người
Mèo, với truyền thống vận chuyển vũ khí trên vùng núi cao (Boudarel 2012: 45), đã tham
gia hướng dẫn các cung đường có thể nhằm di chuyển thành công trọng pháo lên các đỉnh
núi. Và kết cục của Điện Biên Phủ, như tất cả chúng ta đều biết, thắng lợi vẻ vang của
chiến dịch này có công sức vô cùng quan trọng của các dân công người Thái và Mèo mà
chính tướng Giáp đã thừa nhận (McCoy 2002: 132-134).
“Đá mồ côi” loại đá được người H’mông ở Suối Giàng (Văn Chấn, Yên Bái) dùng
để găm vào thân cây trà để tạo nên các tán rộng (Nguyên Khang 2012). Xem thêm “tâm
thức mồ côi” của người H’mông phần sau.
Nhưng luôn ổn định về cấu trúc. Quả thực, đứng như Dournes nói: ngôi nhà có
tiếng nói vĩnh cữu, ai biết lắng nghe thì nó sẽ nói lên một hoài vọng, một ước mơ (Tạ Đức
1999: 16).
Năm 2011, trong một lần sơn dã nghiên cứu H’mông Hà Giang, tôi có ghé thăm
một trí thức lớn người H’mông, nhà sưu tầm dân ca H’mông Hùng Đình Quí. Ông là người
mà tôi luôn nhớ đến với lòng biết ơn sâu sắc. Trong khi trao đổi với nhau nhiều vấn đề, có
chi tiết mà tôi rất nhớ là theo Hùng Đình Quí thì bản dịch Dân ca H’mông của Doãn Thanh
có thể nói là tốt nhất cho đến giờ đã được công bố.
Thực ra, đây là lối diễn đạt mang tính nhãn mạnh tầm quan trọng của dân ca
H’mông nhiều hơn là một kết luận. Nhân học hiện đại cho thấy người ta có nhiều xuất phát