điểm để hiểu tâm lí một tộc người, như từ tập tính và phản ứng kinh tế, chính trị, luật tục,
các hình thức nghệ thuật tộc người... Tất nhiên, một cách phức hợp trong phương pháp
nghiên cứu thì hiển nhiên, mỗi xuất phát điểm luôn được mở rộng phạm vi tham chiếu sang
nhiều lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, cũng bằng trực giác thi sĩ, Chế Lan Viên đã có những “phát hiện đáng
ngờ”, chính trong Lời giới thiệu cho cuốn Dân ca Hmông, Chế Lan Viên đã có một phát
biểu như sau: “Tôi nghĩ các nhà lí luận đang nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực mang yếu
tố hư ảo, ma quái của châu Mỹ La-tinh cũng nên nghiên cứu những yếu tố ấy trong bút
pháp hiện thực của thơ Hmông. Những vấn đề rất mới, rất xa, có khi lại tìm thấy rất gần, ở
trong kho tàng rất cổ” (Doãn Thanh 1984: 27).
Ở đây, cần ý thức phân biệt rõ tính huyền ảo và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Tính huyền
ảo là phạm trù có từ/cùng với sự xuất hiện loài người, nhưng chỉ đến thế kỷ XX ở khu vực
Mỹ La-tinh mới xuất hiện chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo với
tư cách là một thành tựu về sau này, của chủ nghĩa hiện (và hậu hiện) đại vì thế có nội hàm
khác với tính huyền ảo nguyên thủy, khi con người còn giữ nguyên cuống nhau với huyền
thoại, họ chính là huyền thoại. Còn chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ra đời trong tinh thần con
người đã lìa cuống nhau huyền thoại bởi sự sùng bái lí trí. Hiện thực huyền ảo, vì thế, ra
đời là một sự huyền ảo hóa trở lại cái lí trí. Từ đấy, nó xác lập một kiểu thức tư duy mới
cho nhân loại. Do vậy, không nên có sự nhầm lẫn hai hiện tượng mà về hình thức thì tương
đồng nhưng bản chất có khi đã rất khác biệt. (Điều này cũng giống như những nhầm lẫn khi
người ta đã đồng nhất tính hiện đại với chủ nghĩa hiện đại khi nghiên cứu các hiện tượng
văn học, văn hóa trung đại).
Tầm quan trọng của dân ca H’mông đối với tộc người, từ lâu, đã được các nhà dân
tộc học biết đến, như Bế Viết Đẳng viết: “Trong văn học dân gian Mèo, dân ca chiếm vị trí
đáng kể” (Bế Viết Đẳng 1973: 309).
Nói như thế, không có nghĩa cái số hai, số ba trong kho tàng văn học tộc người
như tục ngữ, luật tục, truyện kể... không có giá trị đặc biệt. Chẳng qua, mỗi một tộc người,
mà số phận đặc thù của nó, rơi rớt lại (qua tồn tại thực và hoạt động sưu tầm) đến ngày nay
một vài thể loại văn chương dân gian nào đó nổi bật hẳn lên. Giống như người H’mông,
dân ca đã để lại một kho tàng rất phong phú. Vậy, theo qui luật khá thực dụng, mảnh đất
rộng thì dễ bề chạy nhảy, tư liệu nhiều thì dễ bề kê cứu. Nghiên cứu này, nhắm vào sự
thuận lợi của số lượng dân ca H’mông đã sưu tầm để phân tích.
Vả chăng, với nghiên cứu tâm lí học văn học, thể loại nổi trội của một tộc người tự nó đã
ngầm nói lên điều gì đó. Tại sao tộc người này luật tục rất đồ sộ và công phu, còn tộc người
khác luật tục thật sơ sài? Tại sao tộc người này dân ca phát triển mà tộc người khác truyện
kể lại đáng kể? Tất cả thể loại, đã ở lại thì đều muốn cất tiếng nói riêng. Quan trọng là