địa. Những hành động ấy, đậm đặc não trạng Hoa Di, lí giải một phần cho sự nổi loạn dưới
thời Gia Long và sau này là các triều đại khác trị vì trong di sản chính trị “hán di hữu hạn”
rồi chuyển thành “khai hóa man dân”.
Điều luật này, đã từng tồn tại trước Nguyễn. Ở đây, cần thấy rằng đằng sau sự ban
bố điều luật ngăn cấm hôn nhân Việt và tộc thiểu số ẩn sau nó còn nhiều ràng buộc phức
tạp. Chỗ khác, cho biết thêm luật còn cấm lấy đàn bà con gái nước Chiêm Thành mà mục
đích là để cho “phong tục được thuần hậu” - một kiểu thực thi “khai hóa” như Cương mục
(2007 T.1: 1164) nói tới. Tóm lại, chắc chắn tồn tại diễn ngôn về “khai hóa man di” qua
hôn nhân trong não trạng trung đại, như việc cấm các tục hôn nhân anh em chồng (levirat)
mà trong đó có người H’mông. Cương mụcviết: “Phàm những người Man, lạo ở ven biên
giới, phải kình giữ luân lí, không được làm rối loạn đạo thường, như sau khi cha, anh, chú,
bác mất rồi, người nào là con cháu, anh em với người đã chết ấy không được nhận lấy vợ
cả hoặc vợ lẽ của họ làm vợ mình; nếu ai trái lệnh, sẽ phải trừng trị một cách nghiêm ngặt”
(2007 T.1: 1164). Chủ đề này, cần một khảo cứu công phu.
Tổ tiên trực hệ các vua nhà Nguyễn là thời Chúa Nguyễn, hôn nhân chính trị bang
giao còn được thực thi. Trường hợp Ngọc Vạn - ái nữ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên được
gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II vào năm 1620, được phong hoàng hậu rồi hoàng
thái hậu Chân Lạp là tiêu biểu. Ngọc Vạn là bàn đạp đầu tiên để các chúa Nguyễn lần lần
mở rộng quyền lực thâu tóm Prei Nokor (Chợ lớn) và Kampong Krabei (Sài gòn).
Mà trong lời lẽ cao đạo của “thiên triều” Nguyễn, thường gọi là “giáo hóa” -
“giáo hóa rộng khắp” - một tinh thần thực dân kiểu Nho giáo rất đậm nét. Nhà Nguyễn tin
tưởng “Phàm giáo hóa của vương giả không phân biệt loài nào” (Thực Lục 2004 T.II: 824)
dù là Man, Mọi. Nên công cuộc giáo hóa của triều Nguyễn, như mật dụ Minh Mạng với
quan lại bề tôi là cốt sao: “dùng thói Kinh biến hóa thói man rợ” (Thực Lục 2004 T.V: 58).
Thế nhưng, dù nỗ lực giáo hóa tộc người thiểu số như dạy văn hóa Kinh (Hán phong -
phong tục tốt đẹp), đặt họ thổ dân, đổi họ thổ ty, chép lại gia phả, đổi bổ lưu quan thay thế
quyền lực thổ quan, biến đổi tín ngưỡng, đánh dẹp trừng phạt..., nhưng nhà Nguyễn vẫn
phải trớ trêu nhận ra sự bất lực, kém hiệu quả của chính sách giáo hóa Vương triều. Trải
mấy đời “giáo hóa” quyết liệt, đến Tự Đức cay đắng nhận ra: “Trẫm từ khi lên ngôi đến
nay, thường lấy giáo hóa làm việc đầu, mà đối với người Nùng, Man, các huyện, châu thì
tổng giáo cũng chuẩn cho liệu đặt, dân mới cũng chuẩn cho đi thi, tỏ giáo hóa dạy dỗ dân,
vốn không chia rẽ, thế mà sao hiệu quả ít ỏi như vậy” (Thực Lục 2007 T.VIII: 157)
Thổ quan là dùng người địa phương, còn lưu quan là dùng quan lại triều đình bổ
dụng theo kiểu luân chuyển (Phạm Thận Duật 2000: 143).