đường vào lúc nửa đêm".
"Tôi sẵn sàng" Mèo Bự nói, mắt liếc ngôi nhà. "Đốt chứ?"
"Không, họ sẽ thấy khói, sẽ biết là chúng ta ở đây và sẽ đến để điều tra".
Tôi buông xẻng xuống. "Tội nghiệp ông già". Tôi nhìn Mèo Bự. "Chẳng có
gì thực sự thay đổi cả, phải không?"
Anh cau mặt. "Chỉ có thế giới bên ngoài".
Tôi gật đầu, hiểu anh ấy nói gì. Đối với những người khác, chiến tranh và
hoà bình là những chủ đề để thảo luận. Cơn hấp hối của sự chết chóc không
bao giờ lẻn vào được các phòng hội đồng – cả mùi của nó cũng như sự hãi
hùng của nó.
Mèo Bự trở lại xe, leo lên ghế sau. Tôi cầm lái, cô gái ngồi bên. Cô nhìn
tôi, mắt thao láo. Tôi cảm nhận sự run rẩy của cô khi sương muối chợt
buông trong buổi chiều chập choạng.
Tôi mở máy, nhìn đồng hồ báo xăng. Không còn được phần tư bình. Tôi
quay lại Mèo Bự. "Chúng ta có đủ xăng về thành phố không?"
Anh gật đầu. "Có hai can 10 gallon ở thùng xe".
"Đổ đầy đi, tôi không muốn nửa đêm dừng xe trên đường".
Hơn ba trăm dặm mới đến Curatu. Tôi quay sang cô gái. Cô vẫn run. Tôi
choàng chiếc áo khoác của tôi lên vai cô.
"Cảm ơn" . Tôi không trả lời. "Chúng ta không trở lại trang trại của anh
nữa chứ?"
Tôi lắc đầu. "Không, khi bọn cướp còn ở quanh".
Cô buồn bã. "Em không bao giờ nghĩ sự thể lại thế này".
Tôi châm một điếu xì gà nhỏ. "Chẳng ai ngờ được cả".
"Cha em bảo…"
"Cha em!" tôi giận dữ cắt ngang. "Ông ấy biết gì? ông ấy không phải từ
miền núi này xuống. Ông ấy sống trong cái vỏ bọc của trường đại học. Tất
cả đối với ông là lý thuyết trừu tượng. Ông biết gì vê mùi hôi thối của các
xác chết?"
Cô kéo chiếc áo khoác của tôi kín lại. "Súng đạn" cô nói như với chính