tiệc đang được chuẩn bị dở dang tại đây. Một món đồ trang trí bàn ăn nào đó
đang ngự ở chính giữa tấm khăn trải bàn; nó bị mạng nhện phủ dày đến mức
khó lòng nhận ra hình dáng; và khi tôi nhìn theo mảng màu vàng nơi vật này
dường như mọc lên như một cây nấm đen, như tôi còn nhớ, tôi nhìn thấy
những con nhện chân lốm đốm với phần thân loang lổ chạy về phía nó hay
từ đó chạy ra, như thể có sự kiện nào đó có tầm quan trọng lớn lao chung
vừa mới được truyền đạt tới cộng đồng nhện.
Tôi cũng nghe thấy cả lũ chuột rúc rích đằng sau các tấm ván, như
thể biến cố ấy cũng rất quan trọng với lợi ích của chúng. Nhưng những con
bọ rùa đen chẳng hề nhận ra sự xáo động, và tiếp tục dò dẫm quanh nền lò
sưởi một cách chậm chạp già nua, như thể chúng vừa cận thị vừa nặng tai,
và không mấy ăn ý với nhau.
Những sinh vật bò lổm ngổm này thu hút sự chú ý của tôi, và tôi
đang quan sát chúng từ xa thì cô Havisham đặt một bàn tay lên vai tôi. Bàn
tay kia bà cầm một cây gậy chống để tì cả người lên, và vị phu nhân trông
chẳng khác gì mụ phù thủy - của nơi này.
“Đây,” bà nói, đưa gậy chỉ về phía cái bàn dài, “là nơi ta sẽ được đặt
lên khi ta chết. Người ta sẽ tới viếng ta ở đây.”
Với chút nghi ngờ mơ hồ rằng bà có thể leo lên bàn ngay lúc đó và
chết lập tức và hoàn tất việc trở thành bức tượng sáp ma quái ở Hội chợ, tôi
rụt người lại khi bà chạm tay vào mình.
“Theo cháu cái kia là gì?” bà hỏi tôi, và lại giơ gậy lên chỉ, “kia kìa,
ở chỗ mạng nhện ấy, đó là cái gì?”
“Cháu không đoán được, thưa bà.”
“Một cái bánh lớn. Một cái bánh cưới. Của ta!”
Vị phu nhân nhìn quanh căn phòng, trừng mắt giận dữ, rồi nói, tựa
lên người tôi trong khi bàn tay bà bóp chặt lấy vai tôi, “Nào, nào, nào! Dìu
ta đi, dìu ta đi!”
Từ mấy lời này tôi đoán công việc tôi phải làm là dìu cô Havisham
đi vòng quanh rồi lại vòng quanh căn phòng. Vậy là tôi lập tức vào việc, và