ngại đầy tha thứ trên khuôn mặt nhăn nheo như vỏ quả óc chó dành cho sự
yếu đuối của những người còn lại.
Trong khi Estella cầm nến dẫn đường đưa mấy người kia xuống, cô
Havisham vẫn tiếp tục bám lấy vai tôi bước đi, nhưng mỗi lúc một chậm
dần. Cuối cùng, bà dừng lại trước lò sưởi, rồi lên tiếng sau vài giây vừa lẩm
bẩm vừa nhìn vào ngọn lửa.
“Hôm nay là sinh nhật ta đấy, Pip.”
Tôi đang định chúc bà sinh nhật vui vẻ thì vị phu nhân giơ gậy lên.
“Ta không chịu đựng được người ta nói về nó. Ta không chịu đựng
được những kẻ vừa mới ở đây ra hay bất cứ ai nói về nó. Hôm nay bọn họ
tới đây, song không hề dám nhắc tới nó.”
Tất nhiên là tôi không đả động gì tới ngày sinh nhật nữa.
“Vào ngày này trong năm, từ rất lâu trước khi cháu ra đời, cái đống
mục nát này,” bà đâm gậy về phía đống mạng nhện trên bàn nhưng không
chạm vào, “đã được mang tới đây. Nó và ta đã tàn tạ đi cùng nhau. Lũ chuột
đã gặm nhấm nó, và những cái răng còn sắc hơn răng chuột đã gặm nhấm
ta.”
Bà áp đầu cán gậy vào tim mình trong lúc đứng nhìn cái bàn; vẫn
mặc trên người bộ váy cưới từng có thời trắng tinh song giờ đây đã ố vàng,
xơ xác; tấm khăn trải bàn từng có thời trắng tinh giờ đã ngả vàng và tàn tạ
cả; mọi thứ xung quanh đều ở trạng thái chỉ cần đụng vào là vụn ra.
“Khi sự suy sụp này hoàn tất,” bà phu nhân nói với vẻ mặt tái mét
như xác chết, “và khi người ta đặt ta nằm chết trong bộ áo cưới của ta trên
cái bàn dành cho cô dâu - điều rồi sẽ được làm, và sẽ là lời nguyền rủa tối
hậu trút xuống đầu hắn ta - thật tốt biết bao nếu chuyện đó xảy vào ngày
này!”
Bà đứng nhìn cái bàn như thể đứng nhìn chính mình nằm bất động
trên đó. Tôi vẫn lặng im. Estella quay trở lại, và cô cũng lặng im. Tôi đoán
có lẽ chúng tôi đã tiếp tục như thế một hồi lâu. Trong không khí nặng nề của
căn phòng, trong bóng tối nặng nề bao phủ lên những ngóc ngách xa nhất