của người mặc. Nhưng sau khi mặc lên người bộ vest mới được chừng nửa
giờ đồng hồ, và đã ngắm qua ngắm lại ở vô vàn tư thế góc độ trước cái
gương bàn nhỏ xíu của ông Pumblechook trong nỗ lực vô vọng để cố trông
thấy hai chân mình, bộ đồ có vẻ đã vừa vặn với tôi hơn. Vì hôm ấy là sáng
chợ phiên ở thị trấn bên cạnh cách đó chừng mười dặm, ông Pumblechook
không có nhà. Tôi không nói chính xác với ông tôi định khi nào sẽ về, và rất
có thể sẽ không bắt tay ông thêm lần nữa trước khi ra đi. Tất cả đều đúng
như nên thế, và tôi rời khỏi ngôi nhà trong bộ đồ mới, vừa sợ sệt vừa xấu hổ
khi phải đi qua trước mặt người coi cửa hàng, không khỏi ngờ vực rằng tôi
đang ở vào tình thế không mấy thuận lợi, tương tự như Joe trong bộ đồ ngày
Chủ nhật.
Tôi đi vòng vèo tới nhà cô Havisham theo đủ mọi đường hẻm ngách
hẹp, và rung chuông khá gượng gạo vì những ngón tay dài cứng đơ của đôi
găng tôi đang đi. Sarah Pocket ra cổng, và thực sự ngỡ ngàng lùi lại khi bà ta
thấy tôi thay đổi nhiều đến thế; khuôn mặt như vỏ quả óc chó của bà ta cũng
thay đổi tương tự từ màu nâu sang xanh lục rồi vàng.
“Là mày sao?” bà ta thốt lên. “Là mày? Lạy Chúa lòng lành! Mày
muốn gì hả?”
“Cháu sắp lên London, cô Pocket ạ,” tôi nói, “nên muốn chào tạm
biệt cô Havisham.”
Rõ ràng tôi không được trông đợi, vì bà ta bỏ mặc tôi ngoài sân trước
cánh cổng khóa trái trong khi đi hỏi xem liệu tôi có được cho vào không.
Sau một lát chờ đợi, bà ta quay lại và dẫn tôi vào, không ngừng nhìn tôi
chằm chằm suốt dọc đường.
Cô Havisham đang tập đi trong căn phòng có cái bàn dài, tì người
lên cây can chống. Căn phòng vẫn được thắp sáng như dạo trước, và khi
nghe thấy tiếng chúng tôi bước vào, bà dừng chân rồi quay lại. Lúc ấy bà
vừa đến ngang chỗ cái bánh cưới đã vữa nát.
“Đừng đi, Sarah,” bà nói. “Thế nào, Pip?”
“Cháu sắp lên London, cô Havisham, vào ngày mai,” tôi rất thận
trọng với từng lời nói ra, “và cháu nghĩ cô sẽ không phiền việc cháu tới chào