giám hộ của cậu hồi ấy chưa tư vấn cho cô Havisham, và bà lại quá cao ngạo
và quá si mê không chịu nghe lời khuyên từ bất cứ ai. Họ hàng của bà đều
nghèo và đầy toan tính, ngoại trừ bố tớ; ông cũng khá nghèo, nhưng không
cơ hội hay ghen ăn tức ở. Là người độc lập duy nhất trong số họ hàng của cô
Havisham, bố tớ cảnh báo bà đang làm quá nhiều cho người đàn ông kia, và
đặt mình một cách không đáng vào dưới ảnh hưởng của ông ta. Bà tận dụng
ngay cơ hội đầu tiên để giận dữ yêu cầu bố tớ phải ra khỏi nhà mình trước
sự chứng kiến của người đàn ông kia, và bố tớ không bao giờ gặp lại bà kể
từ dạo đó.”
Tôi nhớ từng nghe thấy bà nói, “Matthew cuối cùng sẽ tới nhìn mặt
ta khi ta nằm chết trên cái bàn kia”; và tôi hỏi Herbert liệu bố cậu có ác cảm
sâu sắc đến thế với bà hay không?
“Không phải thế’,” cậu nói, “nhưng bà buộc tội bố tớ, trước mặt
người bà định lấy làm chồng, là thất vọng về cơ hội dựa dẫm vào bà để tiến
thân, và nếu bây giờ bố tớ đến gặp bà, lời buộc tội ấy sẽ có vẻ đúng - thậm
chí với ông - và thậm chí cả với cô Havisham. Bây giờ chúng ta trở lại với
người đàn ông kia để kết thúc với ông ta. Ngày cưới đã được ấn định, áo
cưới được sắm sửa, chuyến đi trăng mật được lên kế hoạch, khách khứa
được mời. Ngày đó cuối cùng cũng tới, nhưng chú rể thì không. Ông ta viết
cho bà một lá thư…”
“Và bà ấy nhận được,” tôi chen vào, “trong khi đang mặc áo cưới
phải không? Vào lúc chín giờ kém hai mươi?”
“Đúng từng giờ từng phút,” Herbert gật đầu nói, “từ thời điểm đó bà
dừng hết các đồng hồ lại. Nội tình bên trong thế nào, ngoại trừ hành vi hối
hôn vô tâm cùng cực đó, tớ không thể cho cậu hay, vì tớ không biết. Khi
bình phục sau một trận ốm nặng mắc phải, cô Havisham để mặc cả ngôi nhà
chìm vào hoang tàn như cậu đã thấy, và kể từ đó bà không bao giờ nhìn ra
ánh sáng ban ngày nữa.”
“Đó là toàn bộ câu chuyện sao?” tôi hỏi, sau một hồi ngẫm nghĩ.
“Toàn bộ những gì tớ biết về nó; và thực sự tớ chỉ biết có chừng ấy
sau khi tự ráp nối; vì bố tớ luôn tránh nhắc đến nó, và ngay cả khi cô