nếu lúc ấy tôi biết nó ở chỗ nào.
Không bao lâu sau đó tôi tới chỗ pháo đài, và ở đó đúng là người đàn
ông kia - ôm chặt lấy người và tập tễnh đi tới đi lui, như thể suốt cả đêm
không lúc nào dừng làm thế - đang đợi tôi. Chắc chắn là ông ta đang lạnh
cóng. Tôi gần như chờ mong được thấy ông ta ngã vật ra trước mắt mình mà
chết cóng. Đôi mắt ông ta nom cũng có vẻ đói cào đói cấu, đến mức khi tôi
đưa ông ta cái giũa và ông ta để nó xuống mặt cỏ, tôi cảm thấy chắc ông ta
đã cố ăn nó nếu không nhìn thấy cái gói tôi cầm theo. Lần này ông ta không
lộn ngược tôi lên để lấy những gì tôi có trong người nữa, mà để yên cho tôi
được đứng bình thường trong khi tôi mở cái gói và moi sạch mọi thứ nhét
trong các túi áo ra.
“Có gì trong chai vậy, nhóc?” ông ta hỏi.
“Brandy,” tôi nói.
Người đàn ông đã bắt đầu dốc món thịt băm xuống cổ họng theo
cách kỳ cục nhất trần đời - giống như đang vội vã cuống quýt giấu nó vào
chỗ nào đó hơn là ăn - nhưng ông ta vẫn dừng lại để uống một ít rượu. Trong
suốt thời gian đó, ông ta cứ run cầm cập, đến mức phải khó khăn lắm mới
giữ cái cổ bình lọt vào giữa hai hàm răng mà không cắn đứt nó luôn.
“Cháu nghĩ ông đang bị sốt vì lạnh,” tôi nói.
“Tao cũng nghĩ thế, nhóc ạ,” ông ta nói.
“Ở ngoài này tệ lắm,” tôi nói với ông ta. “Ông đã nằm ngoài đồng
bùn, và chúng thường gây những cơn cảm lạnh khủng khiếp. Cả bệnh thấp
khớp nữa.”
“Tao sẽ ăn sáng trước khi chúng giết chết tao,” ông ta nói. “Tao sẽ
ăn, cho dù tao sẽ bị treo lên giá treo cổ như cái ở đằng kia, ngay sau bữa
sáng. Tao sẽ chọi lại được cái lạnh cho tới lúc đó, tao cá với mày là thế.”
Ông ta nuốt chửng món thịt băm, gặm cái xương, ngấu nghiến bánh
mì, pho mát và bánh nhân thịt lợn, tất cả cùng một lúc: vừa ăn ông ta vừa
nhìn chăm chăm đầy ngờ vực vào làn sương mù xung quanh chúng tôi, và
thường xuyên dừng lại - thậm chí cả quai hàm cũng ngừng nhai - để lắng