có thứ gì để uống trong đó.” Sự chú ý của Wemmick vậy là được chuyển
sang đồ cài áo, ông ta để bức tượng đầu xuống, dùng khăn tay lau đồ cài đến
bóng lên.
“Có phải gã còn lại cũng gặp kết cục tương tự không?” tôi hỏi.
“Trông bộ dạng hắn cũng y hệt.”
“Cậu nói đúng đấy,” Wemmick nói, “đó là vẻ mặt thực sự. Cứ như
thể một bên lỗ mũi bị một cái móc câu xỏ lông đuôi ngựa móc lên vậy. Phải,
hắn cũng có kết cục tương tự; lần này là một kết cục khá tự nhiên, xin cam
đoan với cậu. Hắn giả mạo di chúc, gã khốn này đã làm thế, nếu không phải
hắn cũng đã đưa luôn cả những người được cho là lập di chúc đi ngủ. Dù
vậy, mày vẫn quả là một gã có khí khái quý ông,” (Ông Wemmick một lần
nữa lại đầy xúc cảm), “và mày nói có thể viết được tiếng Hy Lạp. Phải, đồ
khoác lác! Mày đúng là một kẻ dối trá! Tao chưa bao giờ gặp kẻ dối trá nào
như mày!” Trước khi trả lại ông bạn quá cố lên giá, Wemmick chạm tay vào
chiếc nhẫn để tang lớn nhất của ông ta và nói, “Hắn đã nhờ người đi mua nó
cho tôi, ngay ngày hôm trước.”
Trong khi người trợ lý cất nốt bức tượng đầu còn lại và xuống khỏi
ghế, trong đầu tôi chợt thoáng qua ý nghĩ tất cả các món đồ trang sức của
ông ta đều bắt nguồn từ bối cảnh tương tự. Vì ông ta chẳng hề tỏ ra e dè về
chủ đề này, tôi liền đánh bạo đưa ra câu hỏi đó trong khi ông đứng trước mặt
tôi phủi bụi hai bàn tay.
“À phải,” ông Wemmick đáp, “tất cả chỗ này đều là những món quà
kiểu đó. Món này lại dẫn tới món tiếp theo, cậu thấy đấy; chuyện là như thế.
Tôi luôn đón nhận chúng. Chúng là những món đồ kỳ lạ. Và là tài sản. Có
thể chúng không đáng giá là mấy, nhưng nói gì thì nói vẫn là tài sản và có
thể mang theo người. Điều này không mấy có ý nghĩa với một người bảnh
bao như cậu, nhưng với tôi thì kim chỉ nam của tôi luôn là, ‘Sưu tầm những
tài sản có thể mang theo người.’”
Khi tôi đã tỏ lòng ngưỡng mộ sự khai sáng, ông ta nói tiếp với vẻ
thân tình: