kín trong nhà.”
“Chà, thấy chưa!” ông ta nói. “Khi một người chỉ có độc một mình ở
giữa chốn đồng lầy này, với một cái đầu váng vất và một cái bụng rỗng
tuếch, sống dở chết dở vì lạnh và đói, hắn ta chẳng nghe thấy gì hơn trong
suốt cả đêm ngoài tiếng súng bắn và tiếng người gọi. Nghe ư? Hắn ta nhìn
thấy bọn lính, áo đỏ sáng rực dưới ánh đuốc đằng trước, đang tiến tới bao
vây hắn. Nghe thấy số tù của hắn được hô lên, nghe thấy chính hắn đang bị
quát đứng lại, nghe thấy tiếng lách cách của những khẩu hỏa mai, nghe thấy
lệnh, ‘Sẵn sàng! Giương súng! Nhắm vào hắn!’ rồi bị những bàn tay tóm lấy
- rồi chẳng có gì cả! Sao chứ, tối qua tao có thấy một toán truy lùng không ư
- có thấy chúng ngay hàng thẳng lối, đều đặn bước tới không ư, quỷ bắt
chúng đi - tao thấy cả trăm ấy chứ. Còn đại bác bắn à! Sao chứ, tao thấy cả
màn sương mù rung chuyển vì đại bác nổ, sau đó là ngày sáng bảnh. Nhưng
còn gã này”; ông ta cứ thế nói một thôi, như thể đã quên bẵng sự có mặt của
tôi, “mày có để ý thấy gì ở hắn ta không?”
“Mặt chú ấy bị bầm tím khiếp lắm,” tôi nói, nhớ lại điều tôi gần như
không biết là mình biết.
“Không phải ở đây chứ?” người đàn ông vội hỏi, đồng thời không
chút thương xót vả lòng bàn tay vào má trái của mình.
“Đúng rồi, ở chỗ đó ạ!”
“Hắn ta đâu rồi?” Người đàn ông vơ vét nốt chút ít thức ăn còn lại
cất vào trong ngực chiếc áo khoác xám. “Chỉ cho tao xem hắn ta đi đường
nào. Tao sẽ quật hắn xuống, như một con chó săn. Quỷ bắt cái xiềng này với
cái chân đau chết tiệt của tao đi! Đưa tao cái giũa nào, nhóc.”
Tôi chỉ về hướng màn sương mù đã nuốt chửng người đàn ông kia,
và ông ta nhìn về phía đó trong khoảnh khắc. Nhưng rồi ông ta lại ngồi
phịch xuống đám cỏ ướt, hì hục giũa cái xiềng của mình như một gã điên,
chẳng buồn bận tâm đến tôi hay đến cả cái chân của mình vốn đã mang sẵn
một vết trầy xước cũ và bê bết máu, song vẫn bị chủ nhân của nó đối xử thô
bạo như thể nó cũng chẳng có nhiều cảm giác gì hơn cái giũa. Giờ tôi lại
thấy sợ ông ta phát khiếp, khi ông ta hối hả giũa xiềng trong cơn vội vã hung